Thứ Năm, 28 tháng 2, 2013

ĐỀ 2 - BÀI VIẾT SỐ 6 - LỚP 8



Đề 2:  Từ  bài “Bàn luận về phép học” của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, hãy nêu suy nghĩ về mối quan hệ của “học” và “hành”
Bài làm
       Trong bài tấu gửi vua Quang Trung vào tháng 8 năm 1791,ở phần “ Bàn luận về phép học”, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp có viết: “Học rộng rồi tóm lại cho gọn, theo điều học mà làm”. Như vậy, cách chúng ta  mấy trăm năm, La Sơn Phu Tử  đã nhận ra được tầm quan trọng của phương pháp học tập kết hợp giữa lí thuyết với thực hành. Điều đó cho chúng ta biết rằng giữa hai yếu tố “học” và “hành”  có mối quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời.
Vậy, “học” là gì? Học là quá trình tiếp thu tri thức và biến những tri thức được tiếp thu ấy thành vốn hiểu biết của bản thân. Việc học không chỉ đơn thuần thông qua việc hướng dẫn giảng dạy của thầy cô, sự truyền thụ kinh nghiệm của những người lớn tuổi mà còn thông qua sự trao đổi với của  bạn bè,  qua việc đọc, nghiên cứu tài liệu, sách vở và quan sát từ thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, “học” chỉ dừng lại ở khâu lí thuyết. Muốn biến những điều đã học thành thực tế, nhất thiết phải thông qua lao động thực hành.
“Hành” là những thao tác nhằm vận dụng  các kĩ năng, kiến thức đã tiếp thu vào việc giải quyết những tình huống, những vấn đề cụ thể. Không một môn học nào lại không có phần thực hành.Việc thực hành thể hiện qua các bài tập sau khi vừa học lí thuyết,qua các tiết thí nghiệm thực hành các bộ môn Lý ,Hóa ,Sinh; qua các thao tác vận động ở bộ môn Thể dục.Theo La Sơn Phu Tử trình bày trong phần “ bàn luận về phép học” thì “hành” là việc vận dụng đạo lý của thánh hiền vào cuộc sống, biến những triết lý trừu tượng  thành việc làm cụ thể nhằm thể hiện nhân cách, phẩm giá của con người.
       Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói: ‘Học mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy”. Lời dạy trên của Bác cũng góp phần khẳng định mối quan hệ  mật thiết và tương hỗ giữa hai yếu tố “học” và “hành” trong cuộc sống.
       Việc thực hành có tác dụng củng cố kiến thức, khắc sâu những điều đã học. Người có học mà không biết ứng dụng những điều đã học vào thực tế thì việc học ấy trở thành vô ích. Sau mỗi bài học lí thuyết là bài bài tập để củng cố, sau mỗi tiết thí nghiệm thực hành là kiến thức đã học được khắc sâu hơn. Nếu không có những tiết bài tập và thí nghiệm thì những điều chúng ta đã học sẽ trở thành mớ lý thuyết suông không có tác dụng gì.
Đối với sĩ tử ngày xưa, đi học là để hiểu rõ Đạo. Đó là lẽ đối xử hằng ngày giữa con người với nhau. Người đi học mà không hiểu rõ đạo, không biết vận dụng đạo lý thánh hiền để cư xử với  nhau mà chỉ “đua nhau lối học hình thức hòng cầu danh lợi,không còn biết đến tam cương, ngũ thường”.  Chắc chắn điều đó sẽ dẫn đến kết quả “chúa tầm thường thần nịnh hót”. Và hậu quả tất yếu sẽ là “ nước mất nhà tan ”.
Ngược lại, nếu mọi người  biết vận dụng lẽ đạo vào trong cuộc sống thì xã hội sẽ tốt đẹp hơn nhiều. La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã nhấn mạnh “Đạo học thành thì người tốt nhiều,người tốt nhiều thì triều đình ngay ngắn mà thiên hạ thịnh trị”
        Tuy nhiên việc thực hành muốn đạt đến thành công cần phải có vai trò khơi gợi dẫn dắt của lí thuyết. Những kiến thức đã học luôn có tác dụng định hướng, dẫn dắt để việc thực hành được tốt hơn. Người thực hành mà không có sự dẫn dắt của học vấn thì khó có hy vọng đạt được mục đích, chẳng khác gì một người đi trong bóng đêm mà không có ánh sáng của ngọn đuốc soi đường.Không một học sinh nào có thể làm được bài tập mà không căn cứ vào những công thức hay định lý đã học. Cũng không một ai thành công ngay ở thí nghiệm đầu tiên mà không có sự hướng dẫn thao tác của thầy cô. Qua bài tấu, để củng cố và phát huy vai trò của việc học, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã thiết tha đề nghị xin vua Quang Trung thay đổi phương pháp học tập sao cho thích hợp: “Lúc đầu học tiểu học để bồi lấy gốc.Tuần tự tiến lên học đến tứ thư, ngũ kinh, chư sử. Học rộng rồi tóm lược cho gọn, theo điều học mà làm.”
          Có một phương pháp học tập tốt và đúng đắn, kết hợp với những thao tác thực hành bài bản, chắc chắn kết quả học tập sẽ được nâng cao và “nhân tài mới lập được công. Triều đình nhờ thế cũng được vững yên”.
          Tóm lại, từ viếc tìm hiểu bài tấu “Bàn luận về phép học” của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, em nhận thấy hai yếu tố “học” và “hành” đều có tầm quan trọng như nhau và quan hệ mật thiết cùng nhau. “Học” có vai trò dẫn dắt việc “hành” và “hành” có tác dụng củng cố khắc sâu và hoàn chỉnh việc “học”. Từ đó, em phải  thay đổi phương pháp học tập sao cho đúng đắn, biết kết hợp vận dụng tốt cả hai yếu tố “học” và “hành” để nâng cao trình độ học vấn của bản thân và áp dụng linh hoạt vào thực tế.

(BÀI CỦA EM NGUYỄN TẤN DANH)

ĐỀ 3 - BÀI VIẾT SỐ 6 - LỚP 8

ĐỀ 3: Trình bày suy nghĩ của em qua câu nói sau: “Hãy yêu sách, đó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống”
BÀI LÀM
        Bàn về  giá  trị  của  sách, đại văn hào Nga M.Gorki có viết:“ Sách mở ra trước mắt tôi một chân trời mới”. Đúng vậy, mỗi trang sách mở ra trước mắt ta là cả một chân trời bao la được khám phá. Nào những kiến thức thú vị, nào những tình thương chân thành, rồi những bí ẩn của cuộc đời… tất cả lần lượt hiện ra sau từng trang sách mở. Ta đọc sách, tầm nhìn ta thay đổi, cuộc sống ta cũng được nâng cao, phát triển. Qủa thật sách có một giá trị và tầm quan trọng lớn đối với cuộc sống chúng ta, cho nên M.Gorki đã khuyên nhủ mọi người: “Hãy yêu sách, nó là nguồn kiến thức, chỉ có kiến thức mới là con đường sống”.
Vậy sách là gì? Khó mà có thể định nghĩa được chúng.Theo quan niệm của người học đạo Thánh hiền theo triết lý Á Đông xưa, sách vốn là di huấn tinh thần mà các bậc tiền nhân để lại cho người đời sau. Nhưng đối với ngày nay thì sách lại là một phương tiện do con nguời đã chế tạo ra nhằm chứa đựng kiến thức được tích luỹ qua bao thế hệ. Sách ra đời để đáp ứng nhu cầu muốn lưu giữ lại kiến thức về mọi lĩnh vực mà người xưa đã bỏ cả đời để khám phá.
Ban đầu, sách được làm bằng cách xâu những chiếc lá lại với nhau, bằng những thanh tre kết lại thành miếng hay trên những tấm da dê, da cừu...Cho đến khi giấy được ra đời và thay thế các phương tiện cổ điển khác và được sử dụng cho đến ngày nay. Từ việc chép tay, người xưa đã nghĩ ra việc khắc bản gỗ để in thủ công. Rồi máy in được ra đời với kĩ thuật hiện đại hơn để từ đó đến nay, chúng ta có là cả một kho tàng sách bất tận.
Câu nói của M.GORKI trình bày rất rõ ràng với hai luận điểm khá thuyết phục: ta yêu sách vì “nó là nguồn kiến thức”“chỉ có kiến thức mới là con đường sống”.
Nhưng tại sao sách lại đươc xem là nguồn kiến thức?
Trong cuộc sống, chúng ta có biết bao nhiêu lĩnh vực để tìm hiểu, để hoạt động. Tương ứng với bao nhiêu lĩnh vực ấy là có bấy nhiêu loại sách ra đời. Mỗi loại lại có nhiều quan điểm tư tưởng, phương pháp khác nhau để hướng dẫn, minh hoạ, phân tích sâu hay phát triển mở rộng. Có rất nhiều loại sách khác nhau, từ sách về Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội đến các sách văn học, kinh tế, chính trị, triết học và  cả những loại sách bồi dưỡng tâm hồn. Loại sách nào cũng có giá trị riêng của nó trên con đường đưa nhân loại đến với tầm cao trí tuệ.
Có thể nói, sách là kho tàng kiến thức chứa đựng tinh hoa của nhân loại. Từ những tinh hoa tri thức của phương Đông đến những phát minh khoa học của phương Tây, từ những kinh nghiệm của cổ đại đến những kiến thức văn minh hiện đại, tất cả đều được lưu giữ trong những trang sách ấy.
Các sách về khoa học tự nhiên cho ta biết về kiến thức thực tiễn. Nhờ đó mà ta biết  được Định luật vạn vật hấp dẫn của Isaac Newton, Thuyết tương đối của nhà bác học Albert Enstein lừng danh thế kỉ XX, rồi Thuyết điện tử của Micheal Faraday hay là Thuyết tiến hoá của Charles Darwin. Đặc biệt là Louis Pasteur với những nghiên cứu về y học như vắc-xin phòng bệnh chó dại…
Các loại sách về khoa học xã hội lại đưa con người đến với những tư tưởng triết học nổi tiếng của các nhà tríêt học cổ đại như  Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử của phương Đông; Xô-crát, Pha-ton, Arixtot của phương Tây hay những tác phẩm bất hủ đến muôn đời như các bộ truyện thần thoại, các bộ sử thi Ô-đi-xê, Iliat của Hy Lạp, sử thi Ramayana của Ấn Độ…
Cũng nhờ các pho kinh điển tôn giáo như Vệ Đà, Đại Tạng, Cựu ước-Tân ước, Cô-ran… mà chúng ta mới hiểu một cách sâu sắc về triết lí, niềm tin của các tôn giáo lớn trên thế giới như Ấn giáo, Phật giáo, Thiên Chúa, Hồi giáo…
Sách là những cột mốc đánh dấu những chặng đường phát tiển của lịch sử. Nhờ các tác phẩm còn để lại mà người đời sau hiểu rõ được từng bước thăng trầm của lịch sử để thêm tự hào vì các bậc tiền nhân, rút ra bài học kinh nghiệm cho đời sau phát triển.
Cho đến nay, chưa có lĩnh vực nào dám khẳng định không cần đến kiến thức để tồn tại và phát triển.M.GORKI viết : “ Như những con chim kì diệu trong truyện cổ tích, sách ca hát về việc cuộc sống đa dạng và phong phú như thế nào ,con người táo bạo như thế nào trong khát vọng đạt tới cái thiện và cái đẹp.Và càng đọc,trong lòng tôi càng tràn đầy tinh thần lành mạnh và hăng hái.Tôi trở nên điềm tĩnh hơn,tin ở mình hơn,làm việc hợp lí hơn và ngày càng ít để ý đến vô số những chuyện bực bội trong cuộc sống”. Những trang viết của Gorki đã giúp ta hiểu được vì sao “chỉ có kiến thức mới là con đường sống”.
Thật thế, nhờ có sách lưu giữ lại tri thức của thế hệ trước mà thế hệ tiếp theo chỉ việc kế thừa và phát triển. Nhờ Jame Watt phát minh ra điện mà ngày nay con người tiến hành điện khí hoá toàn cầu từ thuỷ điện, nhiệt điện, cho đến điện mặt trời, phong điện. Nhờ Graham Bell phát minh ra điện thoại mà thế hệ ngày đã nối mạng toàn cầu bằng hệ thống Internet, hay nhờ có thuyết tương đối của Enstein mà khoa học đã vươn lên tầm vũ trụ. Những phát minh ấy đều lưu truyền cho đời sau đều thông qua những trang sách quí.
Đọc sách giúp ta sát lại gần nhau hơn.Ta hiểu thêm được nhiều hoàn cảnh khó khăn hơn ta để ta biết cảm ơn cuộc sống,biết căm ghét những điều xấu xa.Ta hiểu thêm được nhiều gương giỏi giang hơn ta để ta biết cố gắng và đạt những thành quả tốt đẹp.Hình ảnh một em bé bán diêm đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa cùng với những mộng tưởng đẹp đẽ và niềm hạnh phúc khi cùng được bay lên với bà hằng yêu mến chẳng phải là những điều quý giá mà sách mang lại cho chúng ta để khiến nó tươi đẹp và thú vị hơn sao.
Sách nhỏ bé nhưng những gì chúng mang lại cho chúng ta những điều không thể tưởng tượng. Nhờ sách mà con người ở thế kỉ XXI được hiểu biết cả mấy triệu năm trước kể từ thuở hồng hoang của loài người,tìm hiểu những phong tục,tập quán của tất cả các nước trên thế giới,từ cực Nam cho đến cực Bắc,từ Địa Trung Hải cho đến Đại Tây Dương…Sách triệt tiêu khoảng cách giữa con người với con người,tạo ra một thế giới hoà bình.
        M.GORKI đã từng viết: “ Mỗi cuốn sách đều là một bậc thang nhỏ mà khi bước lên tôi tách khỏi con thú để lên tới gần con người, tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất là về sự thèm khát cuộc sống ấy”.
Hiện nay đất nước ta đang trên đà phát triển thì vai trò của sách càng được khẳng định khắp mọi nơi. Sách thật quý giá và cần thiết biết bao! Hãy yêu sách như lời khuyên tha thiết chân thành của nhà đại hào văn Nga bằng cách làm giàu tủ sách của mình từ những quyển sách hay và thú vị.

(BÀI CỦA EM CHÂU THỊ THANH XUÂN - LỚP 8VC2)
THẦY LONG GIANG HƯỚNG DẪN, CHỈNH SỬA VÀ BỔ SUNG.


Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013

SUY NGHĨ VỀ NHÂN VẬT ÔNG HAI TRONG TRUYỆN NGẮN "LÀNG" CỦA KIM LÂN

Kim Lân là nhà văn có vốn sống vô cùng phong phú và sâu sắc về nông thôn Việt Nam. Các sáng tác của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện “Làng” đươc sáng tác vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với nhân vật chính là ông Hai, một lão nông hiền lành, yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến.

Ông Hai cũng như bao người nông dân quê từ xưa luôn gắn bó với làng quê của mình.Ông yêu quí và tự hào về làng Chợ Dầu và hay khoe về nó một cách nhiệt tình, hào hứng. Ở nơi tản cư ông luôn nhớ về làng,theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm về Chợ Dầu. Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách . Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu lập tề theo giặc.Từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư, nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: “Cả làng Việt gian theo Tây ”. Tin bất ngờ ấy vừa lọt vào tai đã khiến ông bàng hoàng, đau đớn : “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, một lúc lâu ông mới rặn è è nuốt một cái gì vướng ở cổ. Ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi ”nhằm hy vọng điều vừa nghe không phải là sự thật.

Trước lời khẳng định chắc chắn của những người tản cư, ông tìm cách lảng về. Tiếng chửi văng vẳng của người đàn bà cho con bú khiến ông tê tái : “cha mẹ tiên sư nhà chúng nó, đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương,cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát”. Về đến nhà ông chán chường “nằm vật ra giường”, nhìn đàn con nước mắt ông cứ giàn ra “ chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?”. Ông căm thù những kẻ theo Tây, phản bội làng, ông nắm chặt hai tay lại mà rít lên: “chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Niềm tin, nỗi ngờ giằng xé trong ông. Ông kiểm điểm lại từng người trong óc, thấy họ đều có tinh thần cả “có đời nào lại cam tâm làm cái điều nhục nhã ấy”. Ông đau xót nghĩ đến cảnh “người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước”. Suốt mấy ngày liền ông chẳng dám đi đâu, “chỉ ở nhà nghe ngóng binh tình”, lúc nào cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý, đang bàn tán đến cái chuyện làng mình. Nỗi ám ảnh, day dứt, nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông. Ông đau đớn, tủi hổ như chính ông là người có lỗi...

Tình thế của ông càng trở nên bế tắc, tuyệt vọng khi bà chủ nhà có ý đuổi gia đình ông với lý do không chứa người của làng Việt gian. Trong lúc tưởng tuyệt đường sinh sống ấy, ông thoáng có ý nghĩ quay về làng nhưng rồi lại gạt phắt ngay bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ ”, là “cam chịu quay trở lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Tình yêu làng lúc này đã lớn rộng thành tình yêu nước bởi dẫu tình yêu, niềm tin và tự hào về làng Dầu có bị lung lay nhưng niềm tin và Cụ Hồ và cuộc kháng chiến không hề phai nhạt. Ông Hai đã lựa chọn một cách đau đớn và dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!”. Dù đã xác định thế nhưng ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm của mình đối với quê hương. Bởi thế mà ông càng xót xa, đau đớn...

Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn biết tìm niềm an ủi trong lời tâm sự với đứa con trai nhỏ. Nói với con mà thực ra là đang trút nỗi lòng mình. Ông hỏi con những điều đã biết trước câu trả lời: “Thế nhà con ở đâu?”, “thế con ủng hộ ai?”…Lời đứa con vang lên trong ông thiêng liêng mà giản dị: “Nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm !”…Những điều ấy ông đã biết, vẫn muốn cùng con khắc cốt ghi tâm. Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố con ông, tấm lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ”. Những suy nghĩ của ông như những lời nguyện thề son sắt. Ông xúc động, nước mắt “chảy ròng ròng trên hai má”. Tấm lòng của ông với làng, với nước thật sâu nặng, thiêng liêng. Dẫu cả làng Việt gian thì ông vẫn một lòng trung thành với kháng chiến, với Cụ Hồ…

May thay, tin đồn thất thiệt về làng Chợ Dầu được cải chính. Ông Hai sung sướng như được sống lại. Ông đóng khăn áo chỉnh tề đi với người báo tin và khi trở về “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên ”. Ông mua cho con bánh rán đường rồi vội vã, lật đật đi khoe với mọi người.Đến đâu cũng chỉ mấy câu “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ ! Đốt sạch ! Đốt nhẵn ! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính. Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo Tây ấy mà . Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả .” “Ông cứ múa tay lên mà khoe với mọi người”. Ông khoe nhà mình bị đốt sạch, đốt nhẵn như là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc. Mất hết cả cơ nghiệp mà ông không hề buồn tiếc, thậm chí còn rất sung sướng,hạnh phúc. Bởi lẽ, trong sự cháy rụi ngôi nhà của riêng ông là sự hồi sinh về danh dự của làng chợ Dầu anh dũng kháng chiến. Đó là một niềm vui kỳ lạ, thể hiện một cách đau xót và cảm động tình yêu làng, yêu nước, tinh thần hy sinh vì cách mạng của người dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược.

Cách miêu tả chân thực, sinh động, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm đa dạng, tự nhiên như cuộc sống cùng với những mâu thuẫn căng thẳng, dồn đẩy, bức bối đã góp phần không nhỏ tạo nên thành công của câu chuyện, đồng thời còn thể hiện sự am hiểu và gắn bó sâu sắc của nhà văn với người nông dân và công cuộc kháng chiến của đất nước.

Qua nhân vật ông Hai ta hiểu thêm về vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược :Yêu làng, yêu nước và gắn bó với kháng chiến. Có lẽ vì thế mà tác phẩm “Làng ” xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.
Sưu tầm

NHÂN VẬT ANH THANH NIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN LẶNG LẼ SA PA CỦA NGUYỄN THÀNH LONG




Có những nốt nhạc trầm ngâm đến gần như câm lặng nhưng lại mang đến cho người nghe những ý vị sâu sắc và tạo nên nhiều tiếng vang. Có những con người thầm lặng vô danh nhưng lại được hiểu rất nhiều. Anh thanh niên trẻ bước vào những trang viết trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long với công việc lặng lẽ khiến ta hiểu sâu về anh để quý trọng và yêu mến anh, nhưng đồng thời cũng cho chúng ta những suy nghĩ sâu xa.

Trước hết, đọc tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, người đọc cảm nhận sâu sắc hình ảnh anh thanh niên trẻ say mê lao động, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc khiến mỗi chúng ta trân trọng và cảm phục. Từ giã cuộc sống đô thị, nơi xa hoa, lộng lẫy, anh thanh niên trẻ tình nguyện trở về quê hương - mảnh đất Sa Pa, lên đỉnh Yên Sơn lạnh giá làm việc. Anh làm công tác khí tượng thuỷ văn kiêm vật lý địa cầu, quanh năm vắng bóng âm thanh của con người. Chỉ nói về mình vẻn vẹn có năm phút, một cách rất khiêm tốn, anh đã cho chúng ta hiểu hết sự gian khổ của công việc anh làm: Công việc nói chung cũng dễ, chỉ cần chính xác. Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn nghe chuông đồng hồ chỉ muốn tắt đi... Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng yên ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra ào ào xô tới. Anh đã không bỏ qua, không chậm trễ một lần nào dẫu ban ngày hay ban đêm, khi gió lớn hay tuyết rơi. Bởi trong anh đã ý thức được công việc của mình rất rành rọt, dứt khoát. Chúng ta thật xác động khi đọc những dòng suy nghĩ của anh:

Mình sinh ra là gì. Mình đẻ ở đâu. Mình vì ai mà làm việc.


Trong dòng suy nghĩ ấy thực chất là ý thức trách nhiệm. Nguyễn Thành Long thật sâu sắc khi đưa dòng suy nghĩ này đặt vào tâm lý của anh, để anh tự khẳng định chính mình. Anh hiểu được rằng mỗi việc làm của anh là một mắt xích quan trọng trong cái chuỗi công việc chung của nhiều người, của mọi người. Thiếu một lượng thông tin chỉ từ cái đài quan sát của anh, biết đâu việc dự báo thời tiết cho cả một huyện, một tỉnh, một vùng, chả vì thế mà kém chính xác đi, hoặc còn tệ hơn sai lệch đi?


Đã bấy lâu nay, công việc của anh là đo gió, đo mưa, đo nắng, ghi chép rồi gọi về máy bộ đàm, báo cáo về trung tâm. Công việc của anh âm thầm lặng lẽ tưởng chừng như cô đơn nhưng anh vẫn khẳng định:


Khi làm việc ta với công việc là đôi, sao lại gọi là một mình được?


Đó là lời tâm sự của anh với ông họa sĩ già. Phải chăng trong lời nói ấy chứa đựng bao nhiêu tình yêu, niềm say mê với công việc. Con người thật sự không cô đơn bởi trong con người với công việc là một. Anh thanh niên - một con người vô danh nhưng thực là một con người với mọi ý nghĩa tốt đẹp của danh từ ấy, bởi anh đã sống với ý thức trách nhiệm đầy đủ của một con người.


Công việc của cháy vất vả thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất
(lời anh thanh niên với ông họa sĩ già). Thế mới biết công việc đối với anh là quan trọng nhất. Nó là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của anh, là cái đích anh vươn tới bấy lâu nay. Nguyễn Thanh Long đã dùng mấy trang viết để diễn tả niềm say mê công việc của anh? Không! Chỉ vài dòng ngắn ngủi ông đã diễn tả rõ điều đó. Vượt qua tất cả khó khăn anh vẫn cống hiến "một giờ sáng đi ốp". Và để rồi chính anh là người góp phần làm nên chiến thắng, nhờ việc phát hiện ra đám mây khô mà anh đã giúp quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mỹ trên cầu Hàm Rồng. Có lẽ sẽ chẳng có ai vui mừng bằng anh, nó (chiến thắng ấy) đã là động lực để anh làm việc.

Phải chăng Nguyễn Thành Long đã khắc họa tên anh bằng cả tâm huyết, bằng cả sự cảm phục, đậm nét. Anh chính là hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam đang say mê lao động xây dựng đất nước, là tấm gương cho mỗi chúng ta học tập, noi theo.


Anh là một con người mà trong lòng luôn rực rỡ một khát vọng: Sống đẹp, sống có ý nghĩa, sống có ích cho đất nước, cho mọi người. Ở anh toát lên một lối sống giản dị yêu đời tâm hồn trong sáng và trái tim giàu tình yêu thương. Có trách nhiệm đối với mọi người, với công việc anh cũng sống trách nhiệm, với chình mình không buông thả. Chính ông họa sĩ cũng đã nghị:


Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước, dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn.


Nhưng không! Cuộc sống của anh thật giản dị, gọn gàng và sạch sẻ. Tất cả thu gọn trong một góc trái gian nhà với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách. Chẳng cần tìm hiểu sâu thêm, chỉ càn dừng ngay trước nơi anh làm việc cũng đủ để ta thêm yêu mến, quý trọng anh. Nếp sống hằng ngày của anh tổ chức có nề nếp: Ăn, ngủ, làm việc và đọc sách. Anh chẳng khác nào một người đang sống giữa xã hội chứ không phải sống một mình cô đơn. Sống như thế không phải là dễ nhưng đó thực sự là sống đẹp. Cái đẹp ấy không bắt nguồn từ ham muốn giả tạo mà bắt nguồn từ bản chất tâm hồn đẹp.


Sống ở vị trí cô độc nhất thế gian, nhưng anh không buồn, không chán nản. Anh vẫn ham học tập, đọc sách, trồng hoa, nuôi gà. Anh lấy nó làm nguồn vui và cũng là để tăng thêm sự hiểu biết.


Thật là đầy ý nghĩa khi tác giả đưa vào truyện ngắn chi tiết về vườn hoa của chàng trai với bao nhiêu hoa lay đơn, thược dược... Đó không chỉ là hoa của thiên nhiên, đó còn là cái gì tốt đẹp nhất của cuộc đời, đó chính là tâm hồn anh. Và chính anh đã hào phóng tặng nó cho mọi người, cho ông họa sĩ, cho cô kĩ sư... Từ chi tiết ấy như toát lên một triết lý sống: hãy sống tốt đẹp, hãy đến với cuộc sống, đến với mọi người bằng tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình.


Trong sự cô độc nơi làm việc, tâm hồn anh gần gũi con người biết chừng nào, ấm áp biết chừng nào. Anh luôn khao khát được gặp gỡ với mọi người: Bác lái xe đã xử sự rất đúng khi đặt ra thành lệ việc ngừng xe lại nửa giờ nơi đỉnh núi cao để thoả mãn nguyện vọng của anh, nhưng cũng là để được gặp gỡ và tỏ lòng yêu mến một tâm hồn trong sáng như anh. Anh luôn quan tâm đến mọi người. Anh trao gói tam thất cho bác lái xe rất chu đáo chỉ vì hôm qua bác chẳng bảo bác gái vừa ốm dậy là gì? Thái độ ấy, tình cảm ấy còn được bộc lộ ở sự hiếu khách của anh. Anh đã tiếp đón ông họa sĩ giá và cô gái rất chân thành tự nhiên. Anh chân tình quan tâm đến niềm vui và hạnh phúc của người khác. Anh hồ hởi và thích giao tiếp, anh nói những điều người ta ít nghĩ. Từng giấy phút trò chuyện đối với anh là quý giá biết bao nhiêu. Bởi lúc ấy anh thổ lộ những gì sâu kín trong lòng. Mà chình những lời bộc bạch ấy lại gây ấn tượng cho người đọc.

Ta hãy xem anh khiêm tốn biết bao: Chỉ nói về mình có năm phút trong tổng số ba mươi phút gặp gỡ nhưng anh lại để lại ấn tượng khó quên. Nói về mình đã ít mà cách nói cũng hết sức nhẹ nhàng. Anh cho rằng những gì anh làm đâu có đáng gì so với mọi người khác như bác kỹ sư su hào, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét mà trong hoàn cảnh tiếp hai người khách xa tới thì anh hoàn toàn có thể khoa trương cường điệu. Nhưng anh đã không làm vậy. Anh từ chối ông họa sĩ vẽ mình và chân thành giới thiệu bao nhiêu người đáng vẽ hơn anh: Ông kĩ sư su hào, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét...


Chính cuộc sống của anh đã gợi ra một âm vang cho mỗi thế hệ trẻ sau này. Anh là tấm gương tiêu biểu cho hình tượng con người mới Việt Nam đang đi xây dựng đất nước với lối sống đầy tình cảm. Chính điều đó đã tạo cho chúng ta lòng tin yêu vào chế độ mới, cuộc sống mới. Phải chăng anh chính là Mai An Tiêm trong thời đại ngày nay.


Anh thanh niên trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long là một hình tượng điểm hình cho thế hệ trẻ Việt Nam đang xây dựng đất nước. Một con người với lý tưởng cao đẹp: Sống và cống hiến... Anh là tấm gương cho chúng ta học tập, noi theo. Và khúc ca của thanh Hải chợt vọng lại trong lòng chúng ta Một mùa xuân nho nhỏ - Lặng lẽ dâng cho đời...

NGUỒN:
Diễn Đàn Kiến Thức - Trích từ Sách 100 bài làm văn hay lớp 9 *

Hình ảnh nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa pa” Nguyễn Thành Long

(Tư liệu từ SGK Ngữ Văn 9 - Tập 2- NxbGD)

Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa ”của Nguyễn Thành Long lòng ta cứ xao xuyến vấn vương trước vẻ đẹp của những con người ,trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu .Dù được miêu tả ít hay nhiều nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa pa” cũng hiện lên với nét cao quí đáng khâm phục.Trong đó anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ .

Trước tiên anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời,yêu nghề ,ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình.Trong lời giới thiệu với ông hoạ sỹ già và cô gái,bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”.Đã mấy năm nay anh “sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m bốn bề chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo”.Công việc hàng ngày của anh là“đo gió,đo mưa ,đo chấn động mặt đất”rồi ghi chép,gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm.Nhiều đêm anh phải “đối chọi với gió tuyết và lặng im đáng sợ”.Vậy mà anh rất yêu công việc của mình.Anh quan niệm:“khi ta làm việc ta với công việc là đôi,sao gọi là một mình được?”Anh hiểu rõ : “Công việc của cháu gian khổ thế đấy,chứ cất nó đi,cháu buồn đến chết mất”.Sống một mình nhưng anh không đơn độc bởi “lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện.Nghĩa là có sách ấy mà ”.Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc,biết sắp xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định.Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách,thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện cho vơi bớt nỗi nhớ nhà.

Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn.Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “ thèm người ”,lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo.Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu ,lòng mến khách ,nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sỹ già và cô kỹ sư trẻ.Niềm vui được đón khách dào dạt trong anh,toát lên qua nét mặt,cử chỉ:anh biếu bác lái xe củ tam thất,mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ,hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà”,hồn nhiên kể về công việc,đồng nghiệp và cuộc sống của mình nơi Sa pa lặng lẽ.Khó người đọc nào có thể quên,việc làm đầu tiên của anh khi có khách lên thăm nơi ở của mình là:hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái lần đầu quen biết.Bó hoa cho cô gái ,nước chè cho ông hoạ sỹ già, làn trứng ăn đường cho hai bác cháu…Tất cả không chỉ chứng tỏ đó là người con trai tâm lý mà còn là kỷ niệm của một tấm lòng sốt sắng , tận tình đáng quí .

Công việc vất vả ,có những đóng góp quan trọng cho đất nước nhưng người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn.Anh cảm thấy đóng góp của mình bình thường,nhỏ bé so với bao ngừơi khác.Bởi thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ sỹ già phác thảo chân dung mình vào cuốn sổ tay .Con người khiêm tốn ấy hào hứng giới thiệu cho ông hoạ sỹ những người khác đáng vẽ hơn mình:“Không,không ,bác đừng mất công vẽ cháu,để cháu giới thiệu cho bác những người khác đáng vẽ hơn.”Đó là ông kỹ sư ở vườn rau vượt qua bao vất vả để tạo ra củ su hào ngon hơn,to hơn.Đó là “người cán bộ nghiên cứu sét,11 năm không xa cơ quan lấy một ngày”…Dù còn trẻ tuổi,anh thấm thía cái nghiã,cái tình của mảnh đất Sa pa,thấm thía sự hy sinh lặng thầm của những con người đang ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước .

Bằng một cốt truyện khá nhẹ nhàng ,những chi tiết chân thực tinh tế ,ngôn ngữ đối thoại sinh động Nguyễn Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa pa lặng lẽ.Chưa đầy 30 phút tiếp xúc với anh thanh niên,khiến người hoạ sỹ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp cuộc đời mà mình không bao giờ thể hiện hết được và còn làm cô kỹ sư trẻ lòng bao cảm mến bâng khuâng …

Với truyện ngắn này ,phải chăng nhà văn muốn khẳng định:Cuộc sống của chúng ta được làm nên từ bao phấn đấu,hy sinh lớn lao và thầm lặng?Những con người cần mẫn,nhiệt thành như anh thanh niên ấy, khiến cuộc sống này thật đáng trân trọng,thật đáng tin yêu .


BIỂU TƯỢNG CON CÒ TRONG CA DAO



Đã từ lâu, hình ảnh con cò đã đi vào ca dao với tất cả vẻ đẹp của nó. Người lao động bình dân đã gửi gắm niềm vui, nỗi buồn, sự cực nhọc, vất vả, trong những cánh cò ca dao. Dường như thiếu những cánh cò ấy, ca dao sẽ nghèo đi biết mấy. Nhiếu bài ca dao mở đầu bằng hai tiếng con cò: “Con cò bay lả bay la” “Con cò bay bổng bay cao”, “Con cò lặn lội”, “Con cò trắng bạch như vôi”, “Con cò vàng”, “Con cò kì”, “Con cò quắm” v.v…Những con cò, cánh cò như in bóng trong suốt chiều dài của ca dao,


Phải chăng, con cò là hình ảnh rất gần gũi với người nông dân hơn tất cả. Những lúc cày cấy ngoài đồng, người nông dân thường thấy con cò ở bên họ, con cò lội theo luống cày, con cò bay trên đồng lúa xanh xanh, con cò đi quanh quanh trên dòng sông con rạch …

Và chẳng biết tự lúc nào, con cò đã len lỏi vào cảm xúc, tâm trí của người nông dân. Có lẽ chúng ta đều quen thuộc với câu ca dao:
“Một đàn cò trắng bay tung
Bên nam, bên nữ ta cùng hát lên!”

hay câu:
“Một đàn cò trắng bay quanh
Cho loan nhớ phựong, cho mình nhớ ta.”

Trai gái cùng nhau vất vả làm lụng nơi cánh đồng thửa ruộng, họ thân quen rồi đi đến thưong yêu, khi gần thì ấm áp, khi xa thì nhung nhớ. Cánh cò đã nâng cao và chuyên chở trái tim yêu thương của họ. Nhưng họ yêu nhau ước mơ rất nhiều mà nào dễ lấy được nhau, ngày nào còn xa nhau thì mọi tâm tình họ còn hướng về nhau quấn quít như những:
“Cái cò, cái vạc, cái nông
Cùng ăn một đồng, nói chuỵên giằng co
Muối kia đổ ruột con gà
Mẹ mình chẳng xót bằng ta xót mình.”


Người nông dân còn mượn hình ảnh con cò để miêu tả cảnh ngồi không biếng nhác của địa chủ:

Cái cò lặn lội bờ ao…

Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi không
Chú tôi hay tửu hay tăm
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa
Ngày thì ước những ngày mưa
Đêm thì ước những đêm thừa trống canh.”

Chàng trai làng thấy cô nông thôn xinh đẹp “yếm đỏ” vừa đi qua, anh đã cất tiếng trêu đùa dí dỏm. Anh đã đưa ra hình ảnh một tên rượu chè be bét, lười lao động, thích hưởng lạc – một tên chắc chắn anh rất oán ghét – ướm hỏi chị và tất nhiên anh biết rằng chị cũng chẳng ưa gì tên địa chủ ấy. Anh nông dân ẩn thân kín đáo trong “cái cò lặn lội bờ ao”, tuy vất vả lam lũ nhưng lại hay lam hay làm…Bọn địa chủ luôn hiện lên trong ca dao với bản chất tham lam tàn ác:
“Cái cò, cái vạc, cái nông
Ba cái cùng béo, vặt lông con nào!
Vặt lông cái vạc, cho tao!
Hành, răm, nước mắm bỏ vào mà thuôn.”


Cái cò, cái vạc, cái nông tiêu biểu cho người nông dân ở vùng nông thôn. Dưới con mắt của giai cấp phong kiến thì đều “béo” cả. Lần lượt sẽ sa vào tay chúng hành hạ. Một khi chúng muốn ức hiếp thì không cần một lí do chính đáng nào cả. Chúng chỉ cần một vài lời vu cáo vẩn vơ là đủ:
“Cái cò, cái vạc, cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông, hỡi cò?
Không, không, tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà nó đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin thì ông đi đòi
Mẹ con nhà nó còn ngồi ở kia.”


Nhân dân thường lấy “cái cò” để nói về mình trong ca dao có thể đó là một số phận đáng thương:
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.”


Mở đầu bài ca dao ta đã bắt gặp ngay một hình ảnh bất thường: con cò đi ăn đêm. Nó thường đi ăn ban ngày nhưng dường như ban chưa đủ nên mới “tăng ca” như thế. Và vì đi đêm, nó không quen, nên mới gặp tai nạn “Đậu phải cành mềm” và “lộn cổ xuống ao” như một tất yếu. Lời van xin khẩn thiết của nó vang lên một cách đau lòng, xin “ông vớt tôi” lên. Bản năng sinh tồn hay chính lòng ham sống, sống để nuôi con đã giúp cò cất tiếng van xin cứu vớt. Có lẽ cả hai.

Đứng trước cái chết, cò mong được sống cũng là lẽ thường tình. Nhưng tại sao con cò lại thề thốt “Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng”. Thì ra, con cò đang phân trần rằng nó không hề có “lòng nào” là không hề có ý gian tham dối trá. Lần thứ 2 cò lên tiếng mong được chết trong sạch “Có xáo thì xáo nước trong”, bởi cò lại sợ “xáo nước đục” sẽ “đau lòng cò con”. Trong giây phút “thập tử nhất sinh”, con cò dự cảm mình khi lọt vào tay “ông” thì khó mà được sống. Chỉ còn một điều tha thiết là được chết trong danh dự để “cò con” không đau đớn lòng. Đó là một sự lựa chọn đầy đau đớn, bi kịch nhưng rất đẹp, rất nhân văn.

“Cò con” cuối bài ca dao có thể hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là con của con cò, nghĩa thứ hai là chính bản thân con cò nạn nhân đó, nó tự xưng là “cò- con”. Nhiều người cho rằng hiểu theo nghĩa thứ nhất thì hợp lý hơn bởi nếu chết trong “nước đục”, cò con sẽ đau đớn, hổ thẹn vì mẹ nó! Tuy vậy, dù hiểu theo nghĩa nào thì chúng ta vẫn cảm nhận được cảnh ngộ và phẩm chất đáng quí của cò. Số phận nghèo nàn cơ cực nhưng lòng dạ trung thực sáng ngời của người lao động bình dân theo triết lí sống đẹp “Chết vinh còn hơn sống nhục”

Trong ca dao, hình ảnh con cò còn mang biểu tượng người phụ nữ :
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.”

Nhân dân lao động thật có sự liên tưởng quá bất ngờ. Con cò được nhân hóa làm nổi bật lên vẻ tần tảo hy sinh của người phụ nữ trước đây. Từ “lặn lội” gợi lên sự “thầm lặng chịu khó chịu thương nuôi chồng”, việc buôn bán nắng mưa dãi dầu, lời ra tiếng vào, cò kè nơi mua bán chị phụ nữ nào hé răng than vãn, chỉ chọn nơi vắng vẻ người qua lại khóc lóc một hồi cho vơi bớt đắng cay chịu đựng. Hình ảnh này đã từng được Tú Xương vận dụng trong bài thơ “Thương vợ” rất thành công:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”


Mượn một biểu tượng của ca dao để bày tỏ lòng biết ơn trước nỗi vất vả cơ cực của bà Tú, Tú Xương chỉ thay một chữ “con” thành “thân” mà làm sáng cả bài thơ. Biết bao nỗi niềm của Tú Xương được gửi gắm trong hai chữ “ thân cò” ấy!

Kết luận: Một cánh cò thôi mà bay khắp mọi miền đất nước, xuyên thấu mọi thời gian, cánh cò “bay lả bay la”, “bay bổng bay cao” từ chiều sâu quá khứ đến chiều dài hôm nay - ngày mai, cánh cò bay vào lời ru của mẹ, lời dạy của cô, lời tâm sự bạn bè:
“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nơi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi…”
(“Con cò” – Chế Lan Viên)

Nguồn: http://diendankienthuc.net/diendan/van-hoc-9/25430-bieu-tuong-aoecon-coa-trong-ca-dao.html#ixzz2LsXBPbH1

Suy nghĩ của em về những điều người cha nói với con trong bài thơ "Nói với con" của Y Phương.



Ngoài trời, mưa phùn bay, chợt nghe vang vọng đâu đây giai điệu bài thơ Nói với con của nhà thơ Y phương. Những lời thơ giản dị nhưng có sức ám ảnh lạ thường trong tâm trí độc giả. Những điều người cha nói với con trong bài thơ phải chăng cũng chính là lời căn dặn yêu thương mà biết bao nhiêu người cha muốn con mình thấu hiểu ? Mỗi lần đọc bài thơ là một lần ta cúi đầu thành kính trở về với cội nguồn, với những gì thân thương nhất.
Nhan đề “Nói vói con” đã gợi ra một tứ thơ xuyên suốt chiều dài thi phẩm. 

Nhà thơ Y Phương


Bài thơ gồm hai khổ thơ dài là dòng cảm xúc đang trào dâng từ đáy lòng cha, về ngày con sinh ra và tập đi, tập nói - sự sống của con gắn liền với làng quê từ đó :

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.

Đứa con ra đời - một sinh linh bé bỏng vẫy chào sự sống. Bước đi đầu tiên của con là bước đi về phía mẹ cha. Cha dạy con đứng vững, mẹ dạy con tiếng nói điệu cười. Cha mẹ dạy cho con biết đón nhận tình yêu thương và yêu thương lại người quê mình. Yêu những gì giản dị nhất, thân thuộc nhất của cuộc sống người dân, là hình ảnh đan lờ, là cách ken vách nhà... gắn liền với lao động, với câu hát dân ca truyền thống. Người cha muốn con hiểu rằng con đã lớn lên từ đó - từ bước chân, từ tiếng nói điệu cười của mẹ cha, từ cuộc sống lam lũ nhưng thanh bình vui tươi của người dân quê ta. Những gì giản dị nhất nhưng không hề nhỏ bé, những gì bình thường nhất nhưng lại có ý nghĩa lớn lao. Rừng đã cho hoa, con đường cho những tấm lòng ... đó là sự sống đích thực. Ngày cưới cha mẹ - cái “ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời” - ngày cha và mẹ được tác hợp bởi “duyên trời” - cũng ngày đó sự sống của con đã bắt đầu phôi thai. Người cha muốn con mình biết về ý nghĩa của ngày ấy - kỉ niệm thiêng liêng không bao giờ phai mờ đối với mẹ cha và giờ đây lại in dấu trong lòng con.

Nếu như ở khổ một, Y Phương đã mở ra cho con kí ức đẹp về sự sống của đời con thì ở khổ hai, ông nhấn mạnh đến sự gắn bó tinh thần giữa cuộc sống của con và quê hương. Những điều tưỏng giản dị lại là tiếng nói của cội nguồn đấy. Những gì đời thường nhất là điều con cần nghĩ suy đấy. Nhà thơ đã nhắc lại nhiều lần cụm từ “người đồng mình” gợi cảm giác thân quen, tình cảm. Chẳng có gì quí giá, thiêng liêng bằng tình quê, chẳng ai có thể chia sẻ niềm vui nỗi buồn chân thành bằng người dân quê mình. Họ sống vô tư, trong sáng, họ lao động hết sức mình và hưởng thụ những gì mình có - một cuộc sống thanh thản trong tình yêu thương. Cha đã truyền ngọn lửa tình yêu cho đời con, thắp sáng tâm hồn con bằng việc nói cho con hiểu về con người và mảnh đất “trên đá, trong thung, lên thác xuống ghềnh” này.

Người dân quê mình dù “thô sơ da thịt” nhưng không tầm thường về tâm hồn, trí tuệ. Họ biết vun đắp, xây dựng làng quê, biết dệt nên những phong tục, biết tôn vinh quê hương. Họ chăm chỉ, chất phác nhưng cao thượng vô cùng. Phải chăng chính họ đã truyền đời những phong tục, làm nên bao huyền thoại. Họ là :

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái...”.

Từ hiểu biết về cội nguồn quê hương, cha muốn nhắn nhủ con sống sao cho xứng đáng với những người đi trước, sống cho đẹp với nơi chôn rau, cắt rốn. Tạo hoá sinh ra và trao cho ta một thể xác, một linh hồn. Đừng bao giờ hèn hạ đánh mất mình. Người cha muốn con sống cao thượng vì đó là nguồn sức mạnh để con trưởng thành. Quê hương là tấm gương lớn để con soi vào mỗi khi lạc bước. Con sẽ thấy mình đẹp hơn trong tấm gương cội nguồn thiêng liêng ấy.

Đọc những vần thơ của Y Phương ta như đang gặp chính làng quê mình, tâm hồn mình như đang được soi chiếu. Con sinh ra từ mẹ cha, con lớn lên bằng tình thương yêu và con sẽ trưởng thành từ nhận thức về cội nguồn, về sức sống mãnh liệt của làng quê mình. Mỗi làng quê là một phần trong đất nước và mỗi làng quê cũng là một phần trong trái tim con người - trái tim cha và con.

Nguồn: http://diendankienthuc.net/diendan/van-hoc-9/93649-suy-nghi-cua-em-ve-nhung-dieu-nguoi-cha-noi-voi-con-trong-bai-tho-noi-voi-con-cua-y-phuong.html#ixzz2LsVgClJV

Nhà thơ Y Phương

Làng thơ Việt Nam, bên cạnh những “nhà thơ đồng bằng”, những “nhà thơ vùng cao” đã góp phần không nhỏ mang vào bản hợp xướng thơ ca những âm điệu mới. Nó “là lạ”, “ngồ ngộ”, với những ngôn từ mộc mạc, với cách nghĩ và lối diễn đạt “thẳng ruột ngựa” của người vùng cao, kiểu như “Nhớ vợ” của nhà thơ Cầm Vĩnh Ui; “Em tắm” của Bạc Văn Ùi… Nhưng tựu trung, đó là những tiết tấu buồn, nỗi buồn bảng lảng như sương trắng phủ kín thung sâu, và nó bị phong toả, trầm tích như một thứ cổ vật. Nó là “đặc sản” của vùng cao, là một nỗi buồn cố hữu không bao giờ bị hoà tan, không bao giờ biến mất…

Những ngày cuối năm 2007. Sự ra đi của những cây đa, cây đề trong làng thơ, làng văn để lại những nhớ tiếc về nhân cách, về sự nghiệp của những nhà thơ quá cố… Trong sự rơi rụng của “lá rụng về cội”, có cả những nhà thơ dân tộc. Chiếc lá vàng nhất của cây thơ vùng cao, nhà thơ Bàn Tài Đoàn, một nhà thơ dân tộc Dao, Cao Bằng, cũng đã ra đi… Nói những điều ấy, để thấy một điều, những nhà thơ dân tộc có đóng góp, cống hiến cho thơ ca Việt Nam, ngày càng trở nên hiếm hoi, ngày càng thưa thớt dần. Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ V (năm 1994), khi ấy nước ta có 22 nhà văn, nhà thơ là người các dân tộc thiểu số. Đến bây giờ, con số 22 nhà thơ ấy, còn lại bao nhiêu? Có thêm những gương mặt nào mới?... Có lẽ, chưa có ai một lần ngồi nhẩm tính con số ấy. Y Phương là một trong số những nhà thơ hiếm hoi như thế!
Sinh năm 1948, “người trai làng Hiếu Lễ” may mắn chào đời đúng ở cái nôi của xứ Tày: đất Trùng Khánh, Cao Bằng. Cuộc đời của cậu bé Hứa Vĩnh Sước, dù không cay đắng nhưng cũng nhiều nỗi muộn phiền. Và, những nỗi buồn như ám khói ấy, ám ảnh anh cả cuộc đời, ám ảnh cả trong thơ anh.

Thân sinh của cậu bé Vĩnh Sước là một thầy tào, chữa bệnh cho nhiều người. Đối với một bản làng dân tộc ít người, thầy tào có vị trí cực kỳ quan trọng! Đó không chỉ là hiện thân của một người có khả năng xua giải đi những đau khổ muộn phiền trong cuộc sống vật chất, xua đuổi những tà ma, bệnh tật… mà còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cả những phút giây yếu mềm nhất của con người. Ông cụ có tài sáng tác được các bài văn than (bài khóc người chết), có khả năng vẽ bùa lên cái nón lá (kiểu nón tu lờ của các nhà sư), niệm chú vượt sông như các vị la hán mà không cần thuyền… Ước mơ của cậu bé Sước khi ấy là học được những phép thuật của cha, học được những bài thuốc của cha… để mai này lớn lên, theo nghiệp cha làm thầy mo, chữa bệnh... Nhưng ông cụ xem lá số, biết Sước không hợp nên cũng chẳng mấy mặn mà trong việc “truyền nghề” cho con mình nối nghiệp…

Tuổi thơ của Vĩnh Sước được bao bọc trong những câu chuyện tưởng như huyền thoại, về một người cha đầy bí ẩn của chính mình. Nhưng, cũng chính cái “lý lịch” ấy đã trở thành một “tỳ vết” ám khói tạo nên những trắc trở sau này cho một người thanh niên muốn lập thân với xã hội.

Suốt tuổi thơ ròng rã, người cha cũng chính là người thầy đã dạy Y Phương học tất cả những gì mà ông có được: những bài cúng, những bài than, học chữ. 10 tuổi, Vĩnh Sước bắt đầu học và… tập nói tiếng Kinh… Khi ấy, đi học cũng chưa biết để làm gì, và cũng chưa tính đến định hướng ra sao. Mỗi sáng sớm đi học, Vĩnh Sước được mẹ cho 5 xu để ăn xôi, ăn bánh bao. Nhưng, hầu như số tiền nhỏ bé ấy, đứa trẻ lên 10 đều dành dụm lại để mua sách. Đến nỗi, cô hàng bán sách ở thị trấn Trùng Khánh, khi có cuốn sách nào mới đều thông báo ngay cho cậu… Tuổi thơ cô đơn không có bạn bè, Vĩnh Sước chỉ biết làm bạn với sách. Sước ham đọc sách đến mức vừa ngồi nấu cám lợn vừa đọc, đọc say mê đến mức quên cả nồi cám đã lên mùi cháy khét…

Dù chưa thể hiểu hết những hệ luỵ từ cái đuôi của cuộc cải cách ruộng đất, dù khi bắt đầu có mặt trên cuộc đời này (năm 1948), đứa trẻ Vĩnh Sước chưa thể là đối tượng của nó, thế nhưng Y Phương đã sớm trở thành một nạn nhân của một cuộc cách mạng cải lùi ấy. Gia đình bị quy kết thành phần, tất cả những người “có chữ”, nhất là chữ Pháp, đều bị gọi đi làm “cỏ vê” (làm khổ sai, cải tạo). Học chưa hết cấp III, Hứa Vĩnh Sước đã sớm nhận thấy, với cái “lý lịch” không mấy đẹp đẽ của gia đình, nếu không vào bộ đội chắc chắn sẽ không thể nào “sủi tăm” lên được. Vào bộ đội, đấy là giải pháp duy nhất! Vào bộ đội, ấy là làm lại từ đầu. Và, cuối cùng, dù là con một, nhưng với sự hối thúc của một sự nhận thức cá nhân mạnh mẽ, cậu bé Tày họ Hứa ấy đã trải qua đời lính Đặc công, và đến với thơ ca cũng một cách đầy tình cờ.

Chặng đường đời của người trai làng Hiếu Lễ có sự xuất hiện rất nhiều của những bóng hình thiếu nữ Tày, và là một hình tượng văn học khoẻ khoắn, chủ đạo nhất của thơ Y Phương. Nó ẩn dấu trong những Tiếng hát tháng giêng; Mùa hoa… “Mùa hoa/ Người đàn bà/ Mặt đỏ phừng/ Đủ sức vác ông chồng/ Chạy phăm phăm lên núi/ Mùa hoa/ Người đàn ông/ Mệt như chiếc áo rũ/ Vừa vịn rào vừa ngái ngủ…”

Năm 1972, đơn vị mở cuộc thi báo tường. Chàng lính trẻ Y Phương tập tành gửi mấy bài thơ tham dự. Lúc đầu, cũng chỉ nghĩ tham gia cho vui, tham gia với đồng đội lấy không khí… Ai dè, nhóm cán bộ phòng Văn nghệ Quân đội trong một chuyến công tác, đã “lựa” những bài khá nhất về để in báo. Bếp nhà trời, Dáng một con sông được in vào số 6 năm 1973, cùng đợt với Hải Kỳ, Lâm Thị Hồng Tú, Hữu Thỉnh… Khỏi phải nói, nhưng cái cảm giác “sướng phát rồ, phát dại” vì lần đầu có thơ đăng báo, đồng đội chuyền tay nhau đọc… hạnh phúc tới nhường nào!

Miền Nam giải phóng. Đất nước thống nhất. Anh lính trẻ Hứa Vĩnh Sước giải ngũ bắt đầu thực hiện giấc mơ hồi thơ trẻ của mình: học. Khi ấy, năm 1976, trường Viết văn Nguyễn Du mới rục rịch chuẩn bị thành lập, Vĩnh Sước đành phải đăng ký học trường Điện ảnh Việt Nam… chờ đợi. Học hết năm thứ nhất, trường Nguyễn Du tuyển học viên khoá một, thành ra nhỡ nhàng, Y Phương vào khoá 2, cùng với Trần Đăng Khoa, Hà Đình Cẩn, Phùng Khắc Bắc, Đặng Ái, Thanh Kim, Nguyễn Trác, Pờ Sảo Mìn, Phạm Sông Hồng… Có một chuyện Sước nhớ mãi, ấy là thời gian “rời áo lính mặc áo sinh viên”, nhớ nhà quá, anh mượn xe đạp đạp 4 ngày từ Hà Nội về Cao Bằng. Về đến gần nhà thì đói lả, nằm ngất trên tảng đá rìa đường. May thay, có một đám rước dâu, thấy đồng chí bộ đội nằm mệt lả, mới dừng lại xem. Ai dè, đám rước dâu ấy chính là đứa cháu họ của Sước. Thế là, bao nhiêu bánh trái đám cưới, người ta dỡ hết xuống cho Sước ăn…

Những năm tháng nhọc nhằn, nhớ nhiều thấy buồn nhiều, nhưng nó là những “nấc thang” để ước mơ “lên trời” của cậu bé Tày trở thành sự thực. Thế nhưng, khi đã có những cơ hội, khi giấc mơ “trở thành nhà thơ” trở thành sự thực, rồi lấy vợ, sinh con, rồi rời bỏ mái nhà, con suối, góc núi… để xuống dưới đồng bằng, thì giấc mơ “về làng cũ” lại trỗi dậy, mạnh mẽ nhất và dai dẳng nhất.

Cũng chính vì thế, thơ Y Phương, là tiếng nói mạnh mẽ nhất của một sức sống, một tình yêu. Nhưng, sức sống ấy, tình yêu ấy, nó là của một người Tày, không thể hoà lẫn với bất kỳ ai, không giống với bất kỳ ai…

Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2013

Dế Mèn Phiêu Lưu Ký_ TaKóu Nha Trang - P5 (1998)

Nhật ký trong chùa
(Dế Mèn Dương Thị Minh Phương)

Cuối cùng, sau một chặng đường gian nan vất vả nhưng không kém phần hồi hộp, lý thú, chúng tôi cũng lên được tới ngôi chùa Linh Sơn Trường Thọ trên đỉnh núi. Vừa đặt chân lên cõi Phật, việc đầu tiên cần giải quyết là… nạn đói đang hòanh hành suốt mấy tiếng qua. Tụi tôi nhanh chóng tìm chỗ để đồ đạc rồi mỗi đứa ôm một tô mì gói xuống bếp của nhà chùa xin nước sôi. Có đứa vì nóng lòng, không muốn xếp hàng chờ đợi nên đã nhanh tay tự phục vụ, xong hí hửng cầm tô mì ra gặp bạn:
-Ủa, sao tô của tao có váng mỡ, còn mày thì không?
-Cái cô kia múc cho tao ở trong nồi đó, đứa nào chả vậy. Còn mày lấy nước ở đâu?
-Tao lấy ở cái xô kia kìa. Nước ở đó cũng nong nóng.
-Trời ơi, hồi nãy tao mới thấy người ta rửa chén ở đó!
Chẳng biết rồi thằng đó sẽ xử lý tô mì ra sao, tôi đem tô tới bàn của nhóm “Dế mèn” bạn mình cùng ăn cho vui. Không khí se lạnh cộng với cái đói và mệt của mấy tiếng đồng hồ leo núi khiến chúng tôi chén sạch không chỉ phần mình mà còn tấn công qua phần người khác nữa. Chính con Thủy và con Trân đã bày ra cái trò dã man này. Tụi nó ăn xong đầu tiên, rồi vì không có việc gì làm, tụi nó nhìn tôi ăn bằng ánh mắt thèm thuồng. Và rồi có lẽ vì thấy tôi ăn hơi chậm nên tụi nó quyết định “giúp đỡ”. Thế là mỗi đứa cầm một đôi đũa lên, xáp vô tấn công tô mì của tôi. Một trận đại chiến đũa xảy ra. Kết quả là tô mì của tôi mất gần phân nửa. Tức quá, tôi xoay qua trả thù thằng Tuệ. Một phản ứng dây chuyền nổ ra và chỉ khi các tô đều hết sạch thì cuộc hỗn chiến mới chấm dứt.
Trước khi leo núi, Thầy Thắng đã thông báo là các tổ phải giữa lại tô ăn mì để chấm điểm nên ăn xong, chúng tôi phải tự rửa tô của mình. Dường như không khóai cái kiểu tô ai nấy rửa nên bọn con trai tổ tôi đề xuất một sáng kiến: oẳn tù tì, ai thua phải rửa chén cho những người thắng. Kết quả Đăng Khoa với bộ mặt thảm hại mang 6 cái chén đi rửa.
Quang cảnh chỗ bể nước của nhà chùa thật hỗn độn và náo nhiệt. Dễ hiểu thôi, vì đây al2 điểm tập kết bao nhiêu là tô, đũa cần rửa. Các “chuyên gia rửa chén” sốt sắng truyền lại những “kinh nghiệm xương máu” cho những tay gà mờ trong lĩnh vực này:
-Trước tiên mày lấy “Sunlight” rửa cho hết mỡ rồi tráng lại là bảo đảm “sạch bóng, không còn vết dầu mỡ”.
-Nhưng ở đây làm gì có nước rửa chén???
-Thì lấy xà bông vậy. Xà bông giặt đồ hay xà bông tắm cũng được.
-Xà bông mấy đứa kia cũng dùng hết rồi.
-Hừm, để xem… thế thì mày chạy vô lấy ống kem đánh răng ra đây!
-(Băn khoăn) Liệu có sạch không? 
-Xá gì ba cái thứ mì gói lẻ tẻ này, miệng mày ăn quàng quạc suốt ngày cả tỉ thứ mà nó còn làm sạch được nữa là!
Thế đấy. Một khi đã bước chân vào cuộc trại tức là ta phải biết thích nghi, chấp nhận những thiếu thốn không thể tránh khỏi, phải biết ‘có gì xài đó” và tùy cơ ứng biến.
Chỉ tội cho thằng Khoa. Tụi tôi mỗi đứa rửa một cái chén đã đổ mồ hôi hột. Thế mà mình nó ôm cả chồng 6 cái. Sau kỳ trại này chắc má nó sẽ rất hài lòng về khả năng nội trợ của con trai cưng.
Sau một hồi vật lộn, chúng tôi tạm hài lòng với những cái tô tương đối sạch của mình. Cất chén đũa và sắp xếp chỗ ngủ xong, tụi tôi ra sân chùa ngắm trời đất, huyên thuyên một hồi rồi mới chịu đi ngủ.

Dế Mèn Phiêu Lưu Ký_ TaKóu Nha Trang P5 (1998)

Má ơi! Con lạc đừơng rồi!
(Dế Mèn Dương Thị Minh Phương)

-Trời ơi, mỏi chân quá!
Kể từ khi cha sinh mẹ đẻ tới giờ, đôi chân “vàng ngọc” của tôi mới phải lết bộ một quãng đường xa đến thế, mà lại là đừơng núi nữa chứ. Khổ thân tôi quá! Vừa đi vừa than vãn, mới đó mà trời đã tối, khung cảnh càng trở nên rùng rợn. Thế là tự dưng tôi cảm thấy nhỏ Dung đi kế bên dễ thương quá xá nên tôi tự động xích lại gần nó, không rời nửa bước. Đi trước và sau tụi tôi là nhóm “G7″- cái biệt danh mà tụi nó tự đặt ấy mà. Với đội hình 4-2-3, “những người khốn khổ” chúng tôi lầm lũi tiến bước trên “đường tới thiên đàng”. Cho tới khi…
Không ai bảo ai, chúng tôi nhận ra cái sự “mình ta với ta” của cả bọn. Nhìn trước nhìn sau không có ai, bọn tôi đã chột dạ:
-Chắc mình đi sau cùng – Tuệ buột miệng
-Đi sau cũng chẳng sao. Ở đây chỉ có một con đường, đi mãi rồi cũng tới thôi mà- Ai đó phát biểu.
Chí lý! Chí lý! Vậy thì đi, sợ gì! Nhưng đời thật lắm trái ngang mà trời lại ko thương người hiền (mà điển hình là tôi đây) nên ổng mới bày ra lắm chuyện để thử thách chúng tôi: đang đi, bọn tôi hỏang hồn khi thấy con đường bỗng chia làm hai ngả, tối om và rậm rạp. “Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước”, tụi tôi chẳng biết làm sao. Lúc này, Tuệ đề xuất một ý kiến được coi là sáng sủa nhất trong đêm tối mịt mù đó:
-Cảnh, mày chạy lên trước coi có dấu chân không? Bên nào có tức là đòan mình đi qua bên ấy rồi.
Sau một hồi “trinh sát”, Cảnh quay về báo cáo”
-Con đường bên phải đầy dấu chân nhưng… hình như là dấu chân của tao mới đi qua chứ không phải của người ta!
Cái thằng, thiệt, bây giờ mà nó còn giỡn được!
-Nhưng mà tao phát hiện con đường đó có một cái cây đánh dấu chéo.
-Đâu? Đâu? Đi coi đi!
Trước mắt chúng tôi, cái cây nằm bên phải đường đi với một dấu chéo to tổ bố bằng vôi trắng. Thật là ly kỳ, y như trong phim phiêu lưu mạo hiểm, cái dấu chéo kia có thể là “manh mối” gì chăng? Một cuộc họp nội bộ được triệu tập ngay lập tức:
-E hèm… theo tao thì dấu chéo này chỉ cho tụi mình phải đi theo con đường này.
-Nhưng cũng có thể nó bảo mình không nên đi. Gạch chéo tức là bỏ mà.
-Thế khi làm bài trắc nghiệm, mày gạch chéo tức là chọn hay bỏ?
-Trắc nghiệmgì ở đây? Theo tao thì…
Cuối cùng, tụi tôi chọn đai con đường có dấu chéo bí ẩn đó, vừa đi bụng vừa đánh lô-tô. Lúc này đã là 8h30 tối. Rừng về đêm thật đáng sợ. màn đêm dày đặc bao trùm tòan bộ núi rừng Takóu. Chỉ có tiếng côn trùng rỉ rả. Đom đóm rất nhiều, tụ lại như những đám lửa ma trơi, lập lòe trên các tàng cây. Bấy nhiêu đủ làm thót tim những người yếu bóng vía (như tôi chẳng hạn). Thế là nhỏ Dung được tôi trưng dụng như một cái gối ôm di động. Tôi ôm nó cứng ngắc khiến nó la oai óai. Tụi con trai đã vậy còn phụ họa thêm:
-Phương ơi, hình như… có con gián dưới chân Phương kìa!
-Í, con gì giống con bò cạp vậy ta?
-Trời ơi, ma trơi kìa!
Bọn này thiệt là ác nhơn, làm tôi la om sòm, tốn hết mấy trăm kilôcalo, mệt quá chừng!
Mà nghĩ cũng lạ, giữa cảnh rừng khuya âm u, rùng rợn này và trong lúc còn chưa biết mình đi có đúng đường không, tóm lại, tình hình rất là nguy cấp, vậy mà tụi nó cứ tỉnh bơ, lại còn đùa giỡn được nữa chứ. Lạ hơn nữa là ngay cả tôi cũng không cảm thấy sợ hãi gì cho lắm. Chắc là vì tôi đã giải tỏa nỗi sợ của mình bằng cách la tóang lên (phương pháp này hiệu nghiệm lắm đó, có dịp, bạn hãy thử một lần rồi xem, bạn sẽ thích ngay mà)
Lúc này mới thấy hết được ích lợi của cây đèn pin. À, mà việc chia đèn pin cũng đem lại nhiều tranh cãi:
-Một cái đèn pin cho thằng Tuệ vì nó đi sau cùng, bọc hậu mà. Còn lại hai cái để cho khúc giữa vì có hai đứa con gái cần được soi đường.
Hợp tình hợp lý quá đi chứ! Đứa nào phát biểu sáng suốt thật.
-Thế tao không có cái nào à? Cảnh kiến nghị.
-Mày thì cần gì đèn pin? Mày đi khúc nào?
-Tao đi đầu tiên đó. không có đèn làm sao tao dò đường cho tụi bây đi?
-Ừa hén. Cái này coi bộ có lý hơn. Mình chỉ lo phần sau mà quên béng khúc đầu.
Vậy là với 3 cây đèn pin, chúng tôi- những con người dũng cảm (chính tôi còn phải công nhận thế mà)- tiếp tục tiến bước trong những tiếng cười đùa, trò chuyện và cả… tiếng la hét của tôi. Đang đi thì bỗng tâm hồn lãng mạn của đứa nào đó nổi lên:
-Ê, trời sao đẹp quá kìa tụi bây!
Không hẹn, cả 9 cùng ngửa cổ lên trời:
-Ờ, đẹp ghê! Nhiều sao quá ha!
-Không thua gì bầu trời ở Lang Biang hết!
Chọn một tảng đá khá bằng phẳng, cả đám leo lên ngồi ngắm sao. Cả một bầu trời huyền ảo, đầy những ngôi sao lung linh làm chúng tôi ngây ngất. tuệ chỉ cho chúng tôi thấy sao Bắc Đẩu, sao Bò Cạp và rất nhiều những ngôi sao có tên thật ngộ. Sao mà nó biết lắm thế nhỉ? Còn Bảo rút cây harmonica ra thổi “My heart will go on” rồi “You’re my everything”… Không biết người khác nghĩ sao chứ tôi tin rằng tôi và các bạn trong đêm đó đều công nhận nó thổi kèn hay. Trời về khuya, gió luồn trong rừng thổi ra lạnh buốt mà sao tám gương mặt “nhất quỷ nhì ma” lờ mờ trong bóng đêm đó lại khiến tôi thấy ấm lòng lạ. Và tôi bỗng nhận ra cái dễ thương mà ngày thường, tụi con trai lớp tôi bỏ lạc đâu mất. Như Đức, dù tấm thân liễu bồ, gió thổi cũng bay nhưng hắn vẫn hào hiệp xách đồ cho tôi. Như Minh Nghĩa, người kiên trì rọi đèn pin soi đường cho tôi suốt chuyến đi… Tất cả làm cho tôi thấy tụi nó như những thiên thần… gãy cánh.
Ngồi nghỉ một lát bỗng nghe có tiếng lao xao ở đọan đường phía sau. Báo động! Có ma? Không! Ma đâu có xài đèn pin! Thì ra là Thầy Thắng và anh Long Giang đang dẫn một nhóm lớp 8 đi lên. Vậy là nãy giờ chúng tôi bị kẹp giữa một đòan đi quá nhanh, còn một đòan lại đi quá chậm nên mới… hổng gặp ai hết. Đến đây thì yên tâm, 100% ko sợ bị lạc. Tuy vậy, tụi tôi vẫn muốn đi “9 mình” như hồi nãy nên cứ nằng nặc mới các Thầy đi lên trước.
Ngồi chơi thêm một lúc, chúng tôi lên đường với sĩ số 10 người. Địch quân trà trộn chăng? À, người thứ 10 là Đinh Hương lúc nãy đi với nhóm sau nhưng th
ấy tụi tôi vui quá nên cầm lòng ko đặng bèn ở lại.
Thế là cả nhóm rồng rắn kéo nhau đi với hành trang lỉnh kỉnh, những câu chuyện linh tinh và cả những tiếng la oai óai của ai đó không biết.
Nhìn lại chặng đường đã qua, thấy có cái gì dâng lên trong lòng như là tiếc nuối. Cũng con đường này đây, vừa ban nãy, có 9 người đi qua và… đi lạc!

Dế Mèn Phiêu Lưu Ký_ TaKóu Nha Trang P3 (1998)

(Dế Đà Điểu_ Ngô Vũ Minh Trân)

Một tảng đá to tướng chặn giữa đường, ngăn làm hai ngã rẽ, một lên, một xuống. Làm sao đây? “Tụi mình chia hai đi!” “Nhỡ lối kia...”. Tôi quyết định:” Đi lối trên” và bước lên trước, không quên nhìn xem lối kia dẫn đi đâu. Hú hồn, hai lối nhập làm một, dẫn đến cánh cổng to. Rẽ trái, cầu thang dẫn lên chùa hiện ra, cảnh hệt như trong phim võ hiệp. Lúc này mới có dịp nhìn mặt người bạn đường của mình. Thì ra trên xe nó ngồi ngay sau tôi, cách có một lối đi! Một chữ “Đích” to tướng kẻ bằng mực đỏ hiện ra. Có thằng bé mặc áo thun trắng ngồi giữa đường đi. Tôi buột miệng:” Con ma nào ngồi đây vậy?” mà quên mất rằng nói ở chùa là linh lắm.
8 giờ. Sân chùa nhộn nhạo, đèn đuốc sáng choang, đứa nằm, đứa ngồi, đánh cờ, đá cầu đủ kiểu. Tui quăng túi xách vào một xó rồi đi rửa mặt. Nước “thánh” có khác, lạnh ngắt và có màu cafe sữa. Bọn tôi kéo nhau ra chiếm mấy cái ghế ngòai ban công. Lúc này bắt đầu cảm thấy lạnh. Gió hù hù thổi. Trước lúc đi, mẹ tôi đã nhét cái áo gió vào balô, dặn đi dặn lại nên mang theo cái chăn. Phần lười biếng, phần mang theo nào phao, nào túi, tôi len lén đút tọt đống áo gió vào gầm giường, tỉnh bơ xách balô đi, thầm nghĩ sao mà mình thông minh quá. Giờ mới biết mình thật là ngu. Tôi quấn đỡ cái chăn của bé Vi, nhìn cứ y như là bà Chăm nào đi lạc lên đây. Cảnh tượng thê thảm ấy đã khiến con Dế Xủi động lòng, đưa cái áo gió của nó cho tôi. Cái áo gió của nó đủ màu tím, đỏ, vàng, sau lưng còn in chình ình một con gì đó, khủng long không phải, người càng không, í, nhìn kỹ hình như cũng giống nó lắm! Đúng là chủ nào tớ nấy, thật nhảm nhí.
9 giờ. Dế Sư Phụ đã lên mà vẫn chưa thấy tăm hơi lũ dế cụ. Tụi nó chắc hạ trại rồi ngủ luôn ở dưới đó cũng nên. Hay là đi lạc? Dám lắm à! Đường tối thế này, lại không ai dẫn đường. Tội nghiệp quá, tôi phải đi cứu chúng thôi. Nghĩ đến đó, tôi bắt đầu đi xuống các bậc thềm. Đường tối om, ghê quá! Có tiếng con gì cứ sột sọat trong lùm cây. Tôi đứng lại nghe ngóng. Vài đứa lớp 8 tròn mắt nhìn tôi, thì thào:” Ê, tự tử kìa mày“. Thôi, mặc xác lũ ham vui, tôi đi lên ngắm sao vậy.
Trời đêm nay đẹp quá, không một chút mây mù. Mỗi đứa tự chọn lấy một ngôi sao rồi tha hồ treo ngược hồn mình lên đó mà mơ mộng. Nhỏ Dương nói một câu thật chí lí:” Mấy đứa ở dưới cứ muốn leo lên đây làm tiên, đâu có biết tiên đang run cầm cập đây nè!”. Ý nó nói nó là tiên đó mờ! Nó tiên thì tôi cũng tiên chứ sao! Vừa đúng lúc đó mấy thầy chạy ra kêu vào ăn mì. Thiêng ghê, nhắc đến ăn là thấy lũ dế cụ lủ khủ kéo họ kéo hàng lên. Thì ra nãy giờ tụi nó ngồi dưới kia hát hò chứ có đi lạc chi đâu. Mì của nhỏ Dương thật ngon, có điều chỉ mới gắp được hai miếng, lần thứ ba nó phát hiện ra, la tóang lên. Tiếc ghê!
Ăn xong, ỏai nhất là màn rửa bát. Chén mủ khó rửa lắm, lại không có xà bông, tôi cọ mãi mới xong. Vậy mà lão Dế Câm không biết cá cược kiểu gì, ôm sô một lúc 6 cái bát. Con trai thời nay phải giỏi nấu bếp, siêng năng rửa chén quét nhà, để cho phái nữ đi lo chuyện quốc gia đại sự mới phải đạo. Như tôi đây, chuyện đại sự bây giờ là trấn lột một cái áo lạnh khác, bởi con Dế Xủi đã lấy lại mất tiêu cái áo nhăng nhít của nó rồi. Tôi nghĩ mãi mà chưa lựa được nạn nhân. Lũ bạn tôi ấy hả, tòan thứ giang hồ, “bảo kê” các lọai, nó chưa trấn của tôi đã là may. Bình thường tôi vẫn chúa hay ăn hiếp lão Dế Xì Ke. Nhưng nay thấy lão ốm yếu quá, chỉ còn da bọc xương (một bằng chứng chân thực của sự nghiện ngập), thật không nỡ. Tôi vốn là người tốt mà. Lão vẫn đang cặm cụi rửa hai cái bát, một cho lão, một chắc cho con bé nào đấy chứ gì. Rửa xong, nghe tôi than thở, lão đã xăng xái đi mượn áo cho tôi. Mượn ai á, bạn thân của lão chỉ còn tên Dế Câm thôi. Nó mới rửa bát xong, thong dong đi ngắm cảnh. Lão Đức chỉ cần nói mấy câu, nó ngây thơ đưa áo ngay, chả hỏi han gì cả. Ấm rồi. Hình như đồ trấn lột bao giờ cũng ấm hơn đồ của mình thì phải...