Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

NGHỊ LUẬN KHỔ 2-3 - BÀI THƠ "MÙA XUÂN NHO NHỎ" CỦA THANH HẢI



Đề : 
        Tìm hiểu và đánh giá hai khổ thơ liên tiếp để làm nổi bật không khí tưng bừng náo nức và nhịp sống đi lên của đất nước vào xuân trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.

BÀI LÀM

Mùa xuân luôn là đề tài bất tận để các nhà thơ tìm cảm hứng và sáng tác. Thông qua những vẻ đẹp trong cảnh sắc mùa xuân, các nhà thơ gửi gắm vào đó những tâm tư tình cảm, những bài học triết lí từ cuộc sống.  Mùa xuân trong cách nhìn của Mãn Giác thiền sư, một cao tăng thời Lý, là bài học về sự tuần hoàn của tạo vật, một triết lí sâu xa về nhân quả luân hồi của nhà Phật.
                                    “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
                                    Đêm qua sân trước một nhành mai” – (Có bệnh bảo mọi người)
Mùa xuân qua cảm nhận của những nhà thơ mới trước Cách mạng tháng Tám là nỗi chán chường tuyệt vọng:
                                    “ Tôi có chờ đâu có đợi đâu
                                       Đem chi xuân đến gợi thêm sầu” ( Chế Lan Viên, Xuân)
             Riêng ở nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân là tất cả những vẻ đẹp vốn có của  cuộc đời, là nhịp sống đang vươn lên mà tác giả khát khao được hiến dâng, hoà nhập. Những cảm xúc ấy được tác giả thể hiện rõ trong bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ”. Trong đó, không khí tưng bừng náo nức và nhịp sống đi lên của đất nước vào xuân được thể hiện rõ nhất qua khổ thơ hai và ba của bài thơ:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.

Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Từ hình ảnh mùa xuân thiên nhiên, tác giả đột ngột chuyển mạch sang miêu tả hình ảnh mùa xuân đất nước - mùa xuân Cách mạng:
                                    “ Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Trong nhịp sống đi lên của đất nước, nhà thơ chọn lọc hai hình ảnh tiêu biểu “ Người cầm súng - Người ra đồng”. “Người cầm súng” ra tiền tuyến, chiến đấu chống kẻ thù chung để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nền độc lập tự chủ của nước nhà. “Người ra đồng” ở lại hậu phương tham gia sản xuất để xây dựng và phát triển quê hương đất nước. Hai hình ảnh, hai lực lượng, hai nhiệm vụ tiêu biểu của công cuộc cách mạng đổi mới đất nước được tác giả xây dựng theo hình thức sóng đôi, đối xứng nhau một cách hài hoà như nhịp bước song hành của đất nước đi lên.
Tuy nhiên, phát hiện đầy sáng tạo và độc đáo nhất của nhà thơ lại thể hiện qua hình ảnh lộc xuân. “Lộc” vừa có nghĩa là chồi non, “lộc” cũng có nghĩa là sự may mắn theo quan niệm dân gian. Lộc là những đám nương mạ trải dài xanh mướt, lộc là cành lá ngụy trang trên lưng người chiến sĩ biên cương, mùa xuân qua hình ảnh lộc non trải dài từ hậu phương ra tiền tuyến. Những đám nương mạ xanh tốt là tín hiệu cho một vụ mùa thắng lợi, cành lá ngụy trang che mắt quân thù đem lại bình yên cho người lính. Như vậy, dù ở tầng nghĩa nào, hình ảnh lộc non cũng mang đến cho mọi người những niềm vui, hạnh phúc.
Từ đó, nhà thơ miêu tả cả dân tộc cùng bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương tưng bừng nhộn nhịp:
                                    “ Tất cả như hối hả
   Tất cả như xôn xao”
Những từ gợi tả “ hối hả”, “ xôn xao”  cùng với điệp ngữ “ tất cả như” làm cho câu thơ vang lên nhạc điệu vui tươi mạnh mẽ khác thường. Nhịp sống của đất nước, của cuộc cách mạng lúc nào cũng gấp rút, rộn ràng, luôn  tiến về phía trước. Đọc câu thơ ta cảm nhận được tâm trạng vui sướng dạt dào của nhà thơ trước cuộc sống lúc xuân về.
Sang khổ thơ thứ ba, âm điệu câu thơ từ sôi nổi hào hùng bỗng chuyển sang trầm lắng suy tư như bâng khuâng, ngẫm nghĩ:
“ Đất nước bốn ngàn năm
   Vất vả và gian lao”
Nhà thơ đang đứng trên trục thời gian để nhìn lại quá khứ bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Suốt chặng hành trình ấy, lịch sử đã có không ít những trang vàng và những điểm son chói lọi, cũng không phải không có những giai đoạn tăm tối đến tột cùng. Bất giác, chúng ta liên tưởng đến những câu thơ trong Đọc Kiều của Chế Lan Viên:
“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
  Sắc tài sao mà lắm truân chuyên”
Từ điểm nhìn của hiện tại, nhà thơ xoay hướng đến tương lai:
                        “ Đất nước như vì sao
                        Cứ đi lên phía trước”
Nhịp thơ hào hứng vui say trở lại khi tác giả nhìn thấy tương lai huy hoàng của Tổ quốc. Sử dụng nghệ thuật so sánh, tác giả đã cụ thể hóa đất nước như một vì sao tỏa sáng trên bầu trời, cứ tiến mãi về phía trước. Tư thế của nhà thơ trong khổ thơ là vẻ đẹp hào hùng của một người sống giữa cuộc đời tự do, đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Hình ảnh này, chúng ta cũng đã bắt gặp trong những vần thơ mùa xuân của Tố Hữu:
                        “ Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng
                        Trông lại nghìn xưa, trông đến mai sau
                        Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu”
                                                       (Bài ca xuân 1961)
Chỉ có hai khổ thơ thôi, tác giả Thanh Hải đã giúp người đọc cảm nhận được một cách sống động bức tranh đất nước vào xuân. Cả đất trời và con người đều tưng bừng rộn rã chào đón một mùa xuân tươi đẹp. Vẻ đẹp của đất nước vào xuân qua những chi tiết, hình ảnh và giai điệu của thơ làm ta say sưa, ngây ngất.
Nói tóm lại, những bài thơ hay viết về mùa xuân từ xưa đến nay không ít. Nhưng miêu tả mùa xuân gắn liền với nhịp sống sôi động đang tiến lên, đặc biệt là sự phát hiện độc đáo qua hình ảnh mùa xuân nho nhỏ ta chỉ có thể bắt gặp được ở trong bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. Chúng ta càng xúc động hơn khi được biết rằng bài thơ ra đời trong lúc tác giả đang nằm trên giuờng bệnh trước khi mất chẳng bao lâu.



NGHỊ LUẬN ĐOẠN 2 - BÀI THƠ "NÓI VỚI CON" CỦA Y PHƯƠNG


Đề : 
            Nhận xét về bài thơ Nói với con ” của Y Phương, SGK Ngữ Văn 9 – Tập 2 – Trang 74 có viết : Y Phương đã ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình ”
           Hãy phân tích một đoạn thơ trong bài Nói với con ” để làm sáng tỏ nhận định trên.


BÀI LÀM

Ai đã từng đọc “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm chắc chắn không thể quên được tình cảm yêu thương nồng thắm của người mẹ Tà ôi vừa địu con vừa làm rẫy. Nhạc điệu qua mỗi khúc ru là  những cung bậc tình cảm khác nhau của người mẹ đối với đứa con, với quê hương đất nước. Cùng mạch chủ đề này, nhà thơ người dân tộc Tày - Y Phương cũng có bài thơ “ Nói với con”. Mượn lời của người cha nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào, sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương mình.
Nhận xét về bài thơ Nói với con ” của Y Phương, SGK Ngữ Văn 9 – Tập 2 – Trang 74 có viết : Y Phương đã ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình ”. Quan việc phân tích đoạn hai của bài thơ, chúng ta sẽ làm sáng tỏ nhận định này.
                                    “ Người đồng mình thương lắm con ơi
                       
                        Nghe con ”
Cách diễn đạt độc đáo ấy còn được thể hiện ở những câu thơ tiếp theo:
                                    “ Người đồng mình thương lắm con ơi
                                     Cao đo nỗi buồn
                                    Xa nuôi chí lớn”
            Giai điệu Người đồng mình… một lần nữa lại cất lên đầy yêu mến tự hào. Người cha muốn khẳng định với con về vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống của quê hương làng bản. Đó là sức mạnh truyền thống dân tộc, lòng thuỷ chung với quê hương. Hai câu thơ bốn chữ được xếp đối nhau như tục ngữ, đã đúc kết một thái độ một phương châm ứng xử cao quý của người đồng mình, lấy chiều cao của trời, của núi để “đo nỗi buồn”, lấy chiều xa của đất, của rừng  để “nuôi chí lớn”. Tứ thơ đầy phóng khoáng thể hiện một bản lĩnh sống cao đẹp của người dân miền núi. Họ sống vất vả mà mạnh mẽ, khoáng đạt, họ bền bỉ gắn bó với quê hương mặc dầu còn lắm đói nghèo, cực nhọc. Đọc các câu thơ, ta như bắt gặp lại tầm vóc kì vĩ của những anh hùng Đăm San, Xinh Nhã  trong các bản trường ca bất hủ của núi rừng Tây Nguyên.
            Từ đó, người cha bộc lộ mong muốn thiết tha đối với con :
                                    Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
                                    Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
                                    Sống trong thung không chê thung nghèo đói
                                    Sống như sông như suối
                                    Lên thác xuống ghềnh
                                    Không lo cực nhọc
Lời tâm tình của cha cũng là  lời khuyên răn con phải biết trân trọng mảnh đất quê hương, nơi mình sinh ra và lớn lên. Cha mong con phải biết sống hồn nhiên cần cù lạc quan để vượt qua gian khó. Trong câu thơ, ta bắt gặp những hình ảnh ẩn dụ, so sánh, thành ngữ dân gian. Điệp ngữ

“ sống” vang lên ba lần như lời khẳng định một tâm thế, một bản lĩnh, một dáng đứng… của “người đồng mình”. Lời thơ giản dị mà thấm thía, lay động tâm hồn. Điều người cha vẫn muốn vẫn hi vọng ở con là phải sống thuỷ chung tình nghĩa với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua thử thách gian nan bằng ý chí niềm tin của mình. Lời khuyên ấy cũng chính là bài học đạo lí làm người.
 Những câu thơ tiếp theo là lời khẳng định với con, “ người đồng mình” tuy mộc mạc thô sơ nhưng không nhỏ bé:
                        “ Người đồng mình thô sơ da thịt
                         Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
                         Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
                         Còn quê hương thì làm phong tục”
            Ta lại bắt gặp lối diễn đạt đầy hình tượng vốn là nét đặc trưng  của thơ ca miền núi:  “ thô sơ da thịt”, “ nhỏ bé”, “tự đục đá kê cao quê hương”.. Qua những hình ảnh cụ thể ấy, người cha khái quát lên thành bản lĩnh sống, tinh thần tự  tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội của những “người đồng mình. Sự đối lập giữa yếu tố bên ngoài "thô sơ da thịt" với yếu tố tâm hồn “chẳng mấy ai nhỏ bé” là lời khẳng định đầy tự hào về người đồng mình. Họ có ý chí tự lực tự cường, tự làm chủ cuộc sống của mình. Qua sự liên tưởng phong phú sáng tạo "tự đục đá kê cao quê hương ",người cha muốn khẳng định, chính những con người mộc mạc chân chất ấy bằng sự lao động cần cù nhẫn nại hằng ngày đã làm nên quê hương với những phong tục tập quán tốt đẹp. Họ đã giữ gìn bản sắc dân tộc, góp phần làm rạng rỡ quê hương, và người cha muốn con yêu quý và tự hào những đức tính cao đẹp ấy.
            Cả đoạn thơ như âm vang trong những lời tự hào ,sự gắn bó và tình yêu tha thiết của người cha về quê hương .Nó như trở thành một hành khúc mạnh mẽ ngợi ca quê hương .Và, lời nhắc nhở của người cha kết lại bản hành khúc của quê hương lại càng trở nên tha thiết:
                        “ Con ơi tuy thô sơ da thịt
                           Lên đường
                           Không bao giờ nhỏ bé được
                           Nghe con”
Mai sau, “ lên đường” để bay đến những chân trời xa, người cha ân cần căn dặn con không bao giờ được sống tầm thường, nhỏ bé , phải biết giữ  lấy cốt cách giản dị mộc mạc của người lao động, phải làm những điều cao thượng lớn lao.
Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con chính là lòng tự hào với quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời. Nói với con mà chính là cha đã trao tặng cho con. Cha đã vun đắp cho con những tình cảm tốt đẹp , cho con một hành trang quý và đã sẵn sàng tung cánh cho con bay đi khắp mọi nơi.
Từ Nghe con kết thúc bài thơ vang lên thật nhỏ nhẹ, là lời dặn dò ân cần tha thiết mà người cha gửi gắm hết cho con.
Bài thơ không dài với 28 câu thơ tự do, tất cả bay theo cảm xúc tự nhiên ,dạt dào của ý thơ. Giọng thơ tha thiết, trìu mến, hình ảnh thơ vừa cụ thể, mộc mạc,cô đọng mà vừa phong phú, sinh động, giàu chất thơ. Nhà thơ Y Phương đã thấu hiểu và lột tả được tâm hồn tính cách, tình cảm của người dân miền núi. Khúc tâm tình của người cha trong thơ cũng là lời dặn dò của lớp người trước gửi trao thế hệ mai sau.



NGHỊ LUẬN ĐOẠN 1 - BÀI THƠ "NÓI VỚI CON" CỦA Y PHƯƠNG



Đề : 
          Bài thơ Nói với con ” của Y Phương đã thể hiện được tình cảm gia đình yêu thương gắn bó, cuộc sống lao động đầy niềm vui của bản làng giữa núi rừng hùng vĩ và thơ mộng.
         Em hãy phân tích một đoạn thơ trong bài Nói với con ” để làm sáng tỏ nhận định trên.


BÀI LÀM

          Y Phương là một nhà thơ dân tộc Tày, là một trong số ít những nhà thơ dân tộc miền núi được đông đảo bạn đọc biết đến. Vốn sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Trùng Khánh - Cao Bằng vùng đất có núi non hùng vĩ và trùng điệp đã hun đúc cho hồn thơ Y Phương bay cao và bay xa. Ông đã thấm nhuần những tinh hoa, cái đẹp của dân tộc Tày, "Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau ,phong phú và đa dạng ,nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo ,âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo .Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức. Với Y Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một giọng điệu mới ,một phong cách mới " - (Từ điển tác giả ,tác phẩm văn học Việt Nam).
            Bài thơ Nói với con ra mắt bạn đọc năm 1980. Trong thơ, tác giả mượn lời người cha để bày tỏ niềm tự hào về truyền thống của quê hương và mong muốn con sống xứng đáng với truyền thống ấy. Trong đó, đoạn mở đầu đã thể hiện được tình cảm gia đình yêu thương gắn bó, cuộc sống lao động đầy niềm vui của bản làng giữa núi rừng hùng vĩ và thơ mộng.
                                    Chân phải bước tới cha
                                   
                                    Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
            Bài thơ được mở đầu bằng một bức tranh gia đình hạnh phúc, ấm cúng đầy  ắp tiếng nói tiếng cười:
                                    “ Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
            Một mái nhà có cha và mẹ, con lớn lên trong tình thương yêu, sự ấp ủ chở che, nâng đón và mong chờ của cha mẹ. Bốn câu thơ ngắn gọn chia thành hai cặp sóng đôi đối xứng nhau thật chuẩn. Bằng cách diễn đạt đầy hình ảnh vốn là phong cách đặc trưng của ngôn ngữ miền núi, Y Phương đã vẽ nên một bầu không khí gia đình ấm áp, quấn quýt. Từ mỗi dòng thơ, người đọc có thể hình dung cảnh đứa con đang chập chững từng bước đi về phía hai tay dang rộng của cha, của mẹ. Rồi cánh tay rắn chắc của cha nâng con lên cao trong tiếng cười rộn rã hạnh phúc của mẹ.  Mỗi bước đi, tiếng nói, tiếng cười của con đều được mừng vui đón nhận. Hạnh phúc gia đình là cái nôi hình thành nên nhân cách của một con người trong cuộc sống.
Hơn thế nữa, đứa con còn được sinh ra và trưởng thành trong cuộc sống lao động đầy ắp niềm vui, tiếng hát của quê hương làng bản :
                                    “ Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát  
            Người đồng mình là người vùng mình, những người cùng sống trên một miền đất, cùng một quê hương, một dân tộc. Trong bài thơ, cụm từ Người đồng mình được nhắc đến nhiều lần như một giai điệu của lời ru, một điệp khúc trong bài hát. Đây cũng là cách diễn đạt quen thuộc trong ngôn ngữ thơ ca miền núi. Thử đối chiếu với bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm, nhạc điệu trong mỗi khúc ru cũng có sự lặp lai tương tự :
                                    Ngủ ngoan Akay ơi, ngủ ngoan Akay hỡi !
                                    Mẹ thương Akay….
            Người cha nhấn mạnh cụm từ Người đồng mình khi nói với con không ngoài mục đích khẳng định niềm tự hào chính đáng và tình cảm yêu mến chân thành đối với những con người cùng quê hương, dân tộc. Nhà thơ đã vận dụng tự nhiên lối diễn đạt của người niền núi để  xây dựng thành công những hình ảnh thơ, làm cho những hình ảnh ấy vừa cụ thể vừa mang tính khái quát cao mà vẫn giàu chất thơ, bay bổng vẻ đẹp trong cuộc sống người dân miền núi. Cuộc sống lao động tuy vất vả nhưng vẫn tươi vui, mà rất ngọt ngào đầy ắp tiếng cười tiếng hát.
“ Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát  
Đan lờ bằng những nan hoa cài vào nhau, vách nhà được ken vào câu hát. Hai câu thơ được xây dựng sóng đôi và đối xứng với nhau thật hoàn chỉnh. Cuộc sống lao động tay chân đối xứng với niềm vui tinh thần. Những đêm hội hè lời ca tiếng hát vang vọng núi rừng. Những câu hát đối nhau đầy ắp  ân tình giữa những chàng trai cô gái, vách nhà ken đầy tiếng hát yêu thương… Cuộc sống của bản làng mộc mạc mà chan chứa niềm vui, niềm hạnh phúc. Hai động từ cài ken miêu tả sự gắn bó, quấn quýt với nhau. Từ những vần thơ giàu hình ảnh, ta thấy toát lên cảm giác yếu mến tự hào của người cha khi nhấn mạnh con mình được lớn lên giữa bản làng thơ mộng.
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày  cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Trong đoạn thơ, tất cả những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc đều được diễn đạt trực tiếp bằng hình ảnh. Không chỉ lớn lên trong tình cảm yêu thương của cha mẹ, của bản làng, đứa con còn được nuôi dưỡng bởi núi rừng hùng vĩ và thơ mộng. Thiên nhiên bao đời nay gắn bó nghĩa tình, không chỉ che chở, bảo bọc con người mà còn nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn lối sống. Qua những vần thơ vừa tả thực vừa đậm chất trữ tình, người cha muốn cho con mình thấy được những vẻ đẹp , vẻ nên thơ của cuộc sống làng quê để mà yêu, mà nhớ. Con đã trưởng thành trong nghĩa tình của quê hương như vậy đó . Khi nói với con, cha mong cho con hiểu những tình cảm cội nguồn đã sinh dưỡng con, để con biết yêu quý hơn cuộc sống này.
            Như vậy, qua một đoạn thơ mở đầu cùng với thể tự do bay bổng phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên. Tác giả đã tạo ra sự cộng hưởng hài hoà giữa những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời người cha tâm tình với con. Nhà thơ Y Phương đã thấu hiểu và lột tả được tâm hồn tính cách, tình cảm của người dân miền núi. Đó là niềm tự hào về truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc và tình cảm gia đình ấm cúng, yêu thương.







Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014

NGHỊ LUẬN BÀI "SANG THU" CỦA HỮU tHỈNH



Đề :    Nhận xét về sáng tác của mình, nhà thơ Hữu Thỉnh có viết :
Bài thơ không chỉ báo cho người đọc biết thu đã trở trong cảnh sắc thiên nhiên mà còn ngay trong cuộc sống của con người, trong tâm hồn tôi và chắc với rất nhiều người yêu thu..” – Hữu Thỉnh.              
          Em hãy làm sáng tỏ điều đó qua việc phân tích bài thơ “Sang thu ” của Hữu Thỉnh


            Thiên nhiên bao giờ cũng đẹp. Cảnh sắc thiên nhiên là đề tài muôn thuở để các nhà thơ  sáng tác. Nếu cảnh vật mùa xuân thường tươi tắn đem đến niềm vui, sức sống mới thì mùa thu luôn gợi lên cảm giác bâng khuâng hoài cảm. Mùa thu đẹp với “lá vàng rơi xào xạc”, với “tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”. Không ít nhà thơ để lại tên tuổi của mình trên thi đàn nhờ những bài thơ mùa thu bất hủ - Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu… Giờ đây, nhà thơ Hữu Thỉnh cũng khiêm tốn đóng góp vào vườn thơ mùa thu những cảm xúc bâng khuâng khi một góc quê hương vào tiết giao mùa. Bài thơ “Sang thu” chính là thông điệp của nhà thơ.
            Bài thơ mở đầu bằng cái hương vị nhẹ nhàng lan toả, cái cảm giác se lạnh của không gian ở một miền quê nhỏ:
                                    “ Bỗng nhận hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
            Tín hiệu của mùa thu là những chi tiết mộc mạc, bình dị đến bất ngờ, mang đậm yếu tố ở một làng quê Bắc Bộ. Nhà thơ đã đến với mùa thu bằng cách ấy, bằng hương ổi  trong gió se chứ không phải là bằng hình ảnh quen thuộc như lá vàng rơi, vòm trời cao xanh ngắt, gió heo may phảng phất, mùi hương cốm mới... Giải thích cho điều này, nhà thơ Hữu Thỉnh cho biết: “Mùa Thu biểu hiện rất nhiều hình ảnh khi chuyển mùa. Và tất cả những hình ảnh đẹp cũng đã được các nhà thơ cổ khai thác hết cả rồi. Tôi không muốn lặp lại nữa nên giữa trời đất mênh mang, giữa cái khoảng khắc giao mùa kỳ lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra đó chính là hương ổi.... Hương ổi tự nó xộc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta. Mùi hương đơn sơ ấy lại trở thành quý giá vì nó đã trở thành chiếc chìa khóa vàng mở thẳng vào tâm hồn mỗi người, có khi là cả một thế hệ...”. Cảm giác bất ngờ chợt đến “ bỗng nhận ra”,  chỉ một cụm từ thôi đủ để bộc lộ thái độ sững sờ của nhà thơ khi bắt gặp hương thu, tín hiệu đơn sơ từ cuộc sống.
            Từ “hương ổi”, “gió se”, nhà thơ giật mình nhìn ra ngoài để rồi tiếp tục phát hiện thêm “sương chùng chình qua ngõ”. Sương thu ở đây không lạnh, không dày đặc như trong thơ của Tản Đà: “Sương thu lạnh …Khói thu xây thành” mà mờ ảo nhẹ nhàng lan tỏa khắp nơi. Nhờ có sương nên mùa thu dễ nhận ra hơn. Tác giả đã nhân hóa hình ảnh sương thu bằng cái cảm giác chùng chình như lưu luyến bâng khuâng, như ngập ngừng bịn rịn  khiến cho sự vật trở nên sống động, có hồn. Tất cả sự biến chuyển của thiên nhiên được nhà thơ đón nhận bằng  bằng nhiều giác quan: khứu giác, xúc giác, thị giác  và cả trực giác tinh tế của một nhà thơ đang mở rộng tâm hồn với thiên nhiên cuộc sống.
            Câu thơ cuối mở đầu bằng thành phần tình thái “ hình như”. Tác giả đang bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng bối rối trước sự chuyển mùa của đất trời. Sự bâng  khuâng đầy nghi hoặc ấy càng làm tôn thêm vẻ huyền ảo của không gian lúc thu về.      
Thế rồi, cái bỡ ngỡ ban đầu ấy được thay thế bằng niềm rung cảm mãnh liệt khi phát hiện ra hàng loạt tín hiệu khác của mùa thu:
                                    “ Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
            Con sông ngầu đục phù sa lúc nào cũng cuộn chảy trong những ngày mưa mùa hạ giờ đây bỗng trở nên êm ả, dềnh dàng như đang ngẫm nghĩ, suy tư. Có vẻ đã qua rồi những cơn mưa mùa hạ cho nên dòng sông đã trở lại với vẻ bình yên phẳng lặng ban đầu của nó, một vẻ đẹp từng đi vào những vần thơ tuyệt cú của Bà Huyện Thanh Quan :
                                   
“ Xanh om cổ thụ tròn xoe tán
  Trắng xóa Tràng giang phẳng lặng tờ”
                                                                        (Tức cảnh chiều thu)
Tương phản với hình ảnh dòng sông, những cánh chim lại bắt đầu vội vã chuẩn bị cho chuyến bay về phương Nam tránh rét. Trong những đàn chim đang xôn xao vì làn gió lạnh của mùa thu, không biết có con ngỗng trời nào từng được cụ Nguyễn Khuyến miêu tả.
“Một tiếng trên không ngỗng nước nào” – (Thu ẩm)
Chỉ một từ “ bắt đầu” thôi, Hữu Thỉnh đã thể hiện sự cảm nhận tinh tế, sâu sắc trước sự biến chuyển của thiên nhiên. Hai hình ảnh, hai trạng thái được xây dựng tương phản nhau, nhưng vẫn thống nhất cao :  mùa thu đang về nhưng chưa về hẳn.
Tuy nhiên, tả mùa thu, nhà thơ không tả sắc xanh biếc của da trời mà chỉ chú ý đến một chút mây còn vương vấn không khí mùa hè:
                                    “ Có đám mây mùa hạ
                                       Vắt nửa mình sang thu”
            Chỉ một áng mây bâng khuâng mà có thể thấy được cả cả bầu trời đang nhuộm sắc thu. Lối diễn đạt thật là độc đáo, giàu hình tượng. Chỉ một từ “vắt” thôi, ta có cảm giác như bầu trời được chia đôi với hai khoảng không gian của hai mùa Thu – Hạ. Và, trong đám mây mùa hạ ấy dường như phảng phất chút hơi lạnh của gió thu đang đến. Những chi tiết thực và hư cứ hoà lẫn vào nhau tạo nên một chất thơ lãng mạn đến lạ lùng.
            Nối tiếp mạch cảm xúc của hai khổ trên, khổ thứ ba đem đến cho bài thơ một vẻ đẹp mới, làm cho chủ đề ý nghĩa của bài thơ thêm trọn vẹn:
                                    “ Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
            Vẫn là những hình ảnh của thiên nhiên: “ nắng”, “mưa”, “ sấm”, “chớp”…nhưng mức độ cảm nhận trong thơ hoàn toàn khác hẳn. Bầu trời dường như vẫn còn lưu luyến những tia nắng rực rỡ của mùa hè, nhưng những cơn mưa đã dần dần vơi hết, và hàng cây lâu năm trên phố cũng quen dần với những tiếng sấm trong mưa. Nhưng, người đọc hoàn toàn có thể cảm nhận mùa thu trong hai câu thơ cuối được khẳng định bằng kinh nghiệm, bằng suy ngẫm chứ không phải bằng miêu tả. Đâu phải ngẫu nhiên mà tác giả đặt hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” vào cuối bài thơ. Phải chăng sự “ đứng tuổi” ấy  là một cách nói để chỉ tâm hồn, cuộc đời của mỗi con người? Sự chín chắn điềm tĩnh của cây trước sấm sét bão giông  phải chăng là sự từng trải chín chắn của con người khi tuổi đời đã chuyển dần “ sang thu”? Đến đây, chúng ta mới hiểu tại sao các hình ảnh sự vật trong những khổ thơ trước cứ “ chùng chình”, “dềnh dàng” hoặc có khi “ vội vã”…
Thời gian cứ trôi dần qua, con người mãi tất bật với bao lo toan bận rộn, bỗng chốc nhìn lại thì mái tóc điểm sương- mùa thu cuộc đời đã đến bất chấp sự nghi hoặc, bất ngờ .
            Tóm lại, chỉ vẻn vẹn có ba khổ thơ với thể thơ năm chữ, nhà thơ đã dựng lại một bức tranh thu nồng đượm hơi ấm cuộc đời, hơi ấm của quê hương và cả những cảm xúc rất tinh tế, rất chân thật của nhà thơ trước sự thay đổi của đất trời của con người theo thời gian. Cùng với những bài thơ thu bất hủ của các nhà thơ lớp trước, Hữu Thỉnh đã tô điểm thêm cho vườn thơ một thoáng giao mùa tuyệt đẹp của thiên nhiên.