Đề : Nhận xét về sáng tác của mình, nhà thơ Hữu
Thỉnh có viết :
“Bài thơ không chỉ
báo cho người đọc biết thu đã trở trong cảnh sắc thiên nhiên mà còn ngay
trong cuộc sống của con người, trong tâm hồn tôi và chắc với rất nhiều người
yêu thu..” – Hữu Thỉnh.
Em hãy
làm sáng tỏ điều đó qua việc phân tích bài thơ “Sang thu ” của Hữu Thỉnh
|
Thiên nhiên bao giờ
cũng đẹp. Cảnh sắc thiên nhiên là đề tài muôn thuở để các nhà thơ sáng tác. Nếu cảnh vật mùa xuân thường tươi
tắn đem đến niềm vui, sức sống mới thì mùa thu luôn gợi lên cảm giác bâng
khuâng hoài cảm. Mùa thu đẹp với “lá vàng
rơi xào xạc”, với “tầng mây lơ lửng
trời xanh ngắt”. Không ít nhà thơ để lại tên tuổi của mình trên thi đàn nhờ
những bài thơ mùa thu bất hủ - Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu…
Giờ đây, nhà thơ Hữu Thỉnh cũng khiêm tốn đóng góp vào vườn thơ mùa thu những
cảm xúc bâng khuâng khi một góc quê hương vào tiết giao mùa. Bài thơ “Sang thu” chính là thông điệp của nhà
thơ.
Bài
thơ mở đầu bằng cái hương vị nhẹ nhàng lan toả, cái cảm giác se lạnh của không
gian ở một miền quê nhỏ:
“
Bỗng nhận hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Tín
hiệu của mùa thu là những chi tiết mộc mạc, bình dị đến bất ngờ, mang đậm yếu
tố ở một làng quê Bắc Bộ. Nhà thơ đã đến với mùa thu bằng cách ấy, bằng hương ổi trong gió se chứ không
phải là bằng hình ảnh quen thuộc như lá vàng rơi, vòm trời cao xanh ngắt, gió
heo may phảng phất, mùi hương cốm mới... Giải thích cho điều này, nhà thơ Hữu
Thỉnh cho biết: “Mùa Thu biểu hiện rất
nhiều hình ảnh khi chuyển mùa. Và tất cả những hình ảnh đẹp cũng đã được các
nhà thơ cổ khai thác hết cả rồi. Tôi không muốn lặp lại nữa nên giữa trời đất
mênh mang, giữa cái khoảng khắc giao mùa kỳ lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi
phải lay động, phải giật mình để nhận ra đó chính là hương ổi.... Hương ổi tự
nó xộc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta. Mùi hương
đơn sơ ấy lại trở thành quý giá vì nó đã trở thành chiếc chìa khóa vàng mở
thẳng vào tâm hồn mỗi người, có khi là cả một thế hệ...”. Cảm giác bất ngờ chợt đến “ bỗng nhận
ra”, chỉ một cụm từ thôi đủ để bộc
lộ thái độ sững sờ của nhà thơ khi bắt gặp hương thu, tín hiệu đơn sơ từ cuộc
sống.
Từ
“hương ổi”, “gió se”, nhà thơ giật
mình nhìn ra ngoài để rồi tiếp tục phát hiện thêm “sương chùng chình qua ngõ”. Sương thu ở đây không lạnh, không dày
đặc như trong thơ của Tản Đà: “Sương thu
lạnh …Khói thu xây thành” mà mờ ảo nhẹ nhàng lan tỏa khắp nơi. Nhờ có sương
nên mùa thu dễ nhận ra hơn. Tác giả đã nhân hóa hình ảnh sương thu bằng cái cảm
giác chùng chình như lưu luyến bâng khuâng, như ngập ngừng bịn rịn khiến cho sự vật trở nên sống động, có hồn. Tất
cả sự biến chuyển của thiên nhiên được nhà thơ đón nhận bằng bằng nhiều giác quan: khứu giác, xúc giác,
thị giác và cả trực giác tinh tế của một
nhà thơ đang mở rộng tâm hồn với thiên nhiên cuộc sống.
Câu
thơ cuối mở đầu bằng thành phần tình thái “
hình như”. Tác giả đang bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng bối rối trước sự chuyển
mùa của đất trời. Sự bâng khuâng đầy nghi
hoặc ấy càng làm tôn thêm vẻ huyền ảo của không gian lúc thu về.
Thế rồi, cái bỡ ngỡ
ban đầu ấy được thay thế bằng niềm rung cảm mãnh liệt khi phát hiện ra hàng
loạt tín hiệu khác của mùa thu:
“
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Con
sông ngầu đục phù sa lúc nào cũng cuộn chảy trong những ngày mưa mùa hạ giờ đây
bỗng trở nên êm ả, dềnh dàng như đang ngẫm nghĩ, suy tư. Có vẻ đã qua rồi những
cơn mưa mùa hạ cho nên dòng sông đã trở lại với vẻ bình yên phẳng lặng ban đầu
của nó, một vẻ đẹp từng đi vào những vần thơ tuyệt cú của Bà Huyện Thanh
Quan :
“ Xanh om cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa Tràng
giang phẳng lặng tờ”
(Tức cảnh chiều thu)
Tương phản với hình
ảnh dòng sông, những cánh chim lại bắt đầu vội vã chuẩn bị cho chuyến bay về
phương Nam tránh rét. Trong những đàn chim đang xôn xao vì làn gió lạnh của mùa
thu, không biết có con ngỗng trời nào từng được cụ Nguyễn Khuyến miêu tả.
“Một tiếng trên không ngỗng nước nào” –
(Thu ẩm)
Chỉ một từ “ bắt đầu” thôi, Hữu Thỉnh đã thể hiện sự
cảm nhận tinh tế, sâu sắc trước sự biến chuyển của thiên nhiên. Hai hình ảnh,
hai trạng thái được xây dựng tương phản nhau, nhưng vẫn thống nhất cao : mùa thu đang về nhưng chưa về hẳn.
Tuy nhiên, tả mùa
thu, nhà thơ không tả sắc xanh biếc của da trời mà chỉ chú ý đến một chút mây
còn vương vấn không khí mùa hè:
“
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Chỉ
một áng mây bâng khuâng mà có thể thấy được cả cả bầu trời đang nhuộm sắc thu.
Lối diễn đạt thật là độc đáo, giàu hình tượng. Chỉ một từ “vắt” thôi, ta có cảm
giác như bầu trời được chia đôi với hai khoảng không gian của hai mùa Thu – Hạ.
Và, trong đám mây mùa hạ ấy dường như phảng phất chút hơi lạnh của gió thu đang
đến. Những chi tiết thực và hư cứ hoà lẫn vào nhau tạo nên một chất thơ lãng
mạn đến lạ lùng.
Nối
tiếp mạch cảm xúc của hai khổ trên, khổ thứ ba đem đến cho bài thơ một vẻ đẹp
mới, làm cho chủ đề ý nghĩa của bài thơ thêm trọn vẹn:
“
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Vẫn là những hình ảnh của thiên nhiên: “
nắng”, “mưa”, “ sấm”, “chớp”…nhưng mức độ cảm nhận trong thơ hoàn toàn khác
hẳn. Bầu trời dường như vẫn còn lưu luyến những tia nắng rực rỡ của mùa hè,
nhưng những cơn mưa đã dần dần vơi hết, và hàng cây lâu năm trên phố cũng quen
dần với những tiếng sấm trong mưa. Nhưng, người đọc hoàn toàn có thể cảm nhận mùa
thu trong hai câu thơ cuối được khẳng định bằng kinh nghiệm, bằng suy ngẫm chứ
không phải bằng miêu tả. Đâu phải ngẫu nhiên mà tác giả đặt hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” vào cuối bài thơ.
Phải chăng sự “ đứng tuổi” ấy là một cách nói để chỉ tâm hồn, cuộc đời của
mỗi con người? Sự chín chắn điềm tĩnh của cây trước sấm sét bão giông phải chăng là sự từng trải chín chắn của con
người khi tuổi đời đã chuyển dần “ sang thu”? Đến đây, chúng ta mới hiểu tại
sao các hình ảnh sự vật trong những khổ thơ trước cứ “ chùng chình”, “dềnh dàng” hoặc có khi “ vội vã”…
Thời gian cứ trôi dần qua, con người mãi
tất bật với bao lo toan bận rộn, bỗng chốc nhìn lại thì mái tóc điểm sương- mùa
thu cuộc đời đã đến bất chấp sự nghi hoặc, bất ngờ .
Tóm lại, chỉ vẻn vẹn có ba khổ thơ
với thể thơ năm chữ, nhà thơ đã dựng lại một bức tranh thu nồng đượm hơi ấm
cuộc đời, hơi ấm của quê hương và cả những cảm xúc rất tinh tế, rất chân thật
của nhà thơ trước sự thay đổi của đất trời của con người theo thời gian. Cùng
với những bài thơ thu bất hủ của các nhà thơ lớp trước, Hữu Thỉnh đã tô điểm
thêm cho vườn thơ một thoáng giao mùa tuyệt đẹp của thiên nhiên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.