Thanh Tịnh
là một tên tuổi lớn của văn học Việt Nam thời tiền chiến. Truyện ngắn
của ông tràn đầy chất thơ và đã tạo ra được một không gian văn chương riêng
biệt. Đó là dòng văn chương trữ tình đầy chất lãng mạn và đã được Hồ Dzếnh
trong một bài thơ cảm tác khi nghe tin tác giả “Quê mẹ‘ vừa lìa đời năm 1988:
“Đời
xếp anh, tôi và Thạch lam
ngồi
chung một chiếu hội văn đàn
chao ôi! Chiếu đã hai lần lạnh
còn lại mình tôi với thế gian
dẫu biết đường đi chỉ có chừng
gió chiều sao vẫn ớn trên lưng?
Trái tim bỗng dội niềm xao xuyến
Tàu rẽ vào ga. Chặng cuối cùng
Thôi nhé anh về vui bạn cũ
Tôi chờ đến hẹn lại thăm anh
Lòng ta như nước sông Hương ấy
Vời vợi trời thu dáng núi xanh.”
Có hai
chân dung Thanh Tịnh. Một Thanh Tịnh của thời tiền chiến và một Thanh Tịnh của
thời văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cả hai rất khác nhau và biểu hiện cái
nếp sống nếp nghĩ của hai thời kỳ. Thời kỳ 1930 –1945, Thanh Tịnh đem thi ca
trộn lẫn vào văn xuôi để có được những áng văn đẹp như một bài thơ và cũng bàng
bạc những nỗi niềm của một quá khứ đã xưa nhưng vẫn còn gợi lại trong ký ức
những bàng bạc xao xuyến của những điều đã mất đi và khó tìm lại được. Cái
không gian và thời gian của làng quê mang tên Mỹ Lý có lẽ chỉ trong tưởng tượng
nhưng là của một sự thay đổi từ những cuộc đời cổ xưa êm ả đến những buổi giao
thời giữa cái mới và cái cũ. Trong đời sống chao đảo mà cũ mới đối nghịch nhau,
Thanh Tịnh tuy vẫn phê phán những tục lệ cổ hủ nhưng vẫn nâng niu và bênh vực
những tập quán tốt đẹp của ngày trước, của những đời sống yên bìnhđã kéo dài từ
lâu.
Thạch Lam đã có một nhận xét khá xác đáng về thơ và văn Thanh Tịnh thời tiền
chiến “truyện ngắn nào hay của ông đều có chất thơ bên trong và bài thơ nào hay
cũng đều có cốt truyện lồng theo”. Chất hài hòa đã làm cho văn chương ông có
nétriêng, thơ mộng và lãng mạn.
Trả lời câu
hỏi những nhận xét về sự đánh giá lại giai đoạn văn học 1930-1945, Thanh Tịnh
đã nói :
“... Phải có khoảng cách khá xa nhìn lại mới bình tâm hơn, mới sáng suốt hơn
nhất là cái nhìn đối với một giai đoạn văn học vừa mới qua hay đang xảy ra.
Thông thường ta hay bị cái nhu cầu của hiện thời chi phối. Cái đó là rất cần
nhưng phải trông xa hơn và tầm nhìn rộng hơn để tránh những cái nhìn đáng tiếc
và ấu trĩ …” (bài phỏng vấn của Bửu Nam trong tạp chí Sông Hương số
tháng 10-1985).
Có phải tác giả “Quê Mẹ“ chạnh nghĩ đến những điều mình đã viết trong thời kỳ
mà văn học có nhiều sinh động. Dẫu sao, chẳng có ai đủ can đảm để từ bỏ những
gì mình đã nâng niu, của một thời kỳ cầm bút sung mãn nhất của đời mình.
Cùng với Thạch Lam, Hồ Dzếnh, ông được xếp vào cùng một trường phái văn chương
vị nghệ thuật. Những truyên ngắn của ông tràn ngập ý thơ, với một tâm hồn vừa
lãng mạn vừa sâu sắc. Một thế giới được tạo dựng lại với sự rung cảm tột độ khi
diễn tả. Thời đó, không gian ấy đã xa lạ, đã là những ký ức đã qua, thì với bây
giờ, sao đọc lại mà vẫn thấy hiển hiện những cảm nghĩ mồn một những xúc động.
Thanh Tịnh viết về ngôi làng của mình, Làng Mỹ Lý trong cái thời gian mới cũ
giao thời. Chữ Nho cổ xưa dần dần được chữ Pháp và Quốc ngữ thay thế. Phong tục
trong làng cũng theo thời mà thay đổi. Hình ảnh ông đồ của thơ Vũ Đình Liên
cũng phảng phất trong truyện ngắn Thanh Tịnh. Những ông đồ nho của một thời
thất thế. Như hình ảnh ông Hậu con của ông Hoàng chủ nhân của một dinh cơ nguy
nga của một thời lừng lẫy phải viết câu đối tết ở phiên chợ cuối năm để sinh
nhai, dù “chữ của ông ta viết đẹp lắm“ nhưng chỉ là hình ảnh gợi trí tò mò của
những lũ trẻ con xúm nhau vây quanh nhìn ông ta viết một cách lơ đãng không
hứng thú. Hay như nhân vật trong “Chú tôi”, một thầy đồ của thời cũ sót lại,
với những câu văn hoa buồn cười và lối sống hủ lậu đang dần dần tàn tạ. Trong
buổi giao thời, mọi giá trị bị thay đổi. Nhưng trong lòng những tâm hồn hoài cổ
chắc không tránh khỏi nỗi ngậm ngùi.
Thanh Tịnh có những trang viết về tuổi học trò vẽ lại được một thời kỳ đã qua
với nhiều sinh động. Những trường học mái ngói đỏ au dần dần đã thay đổi những
lớp ê a câu Tam Tự kinh, những thầy giáo, những ông đốc mang ánh sáng văn minh
đến tuổi hioc trò đã thay thế những cụ đồ già của thời cổ xưa ngồi trên phản ôm
xe điếu với những câu chi hồ giã dã. Những đứa trẻ lớn lên, say sưa với những
biểu tượng của thời đại mới, thích thú với những cầu thủ của “đội ban nhà quê”,
nhìn những chuyến tàu đi qua làng với cái háo hức tìm kiếm từ phương xa mang
lại. Lúc ấy, đã xa lắm những lề tục hủ lậu, và đời sống đã có những cựa mình
thay đổi. Những màn cúng tế, những buổi họp làng họp tổng, không còn là nỗi chú
tâm của tuổi thơ.
Háo hức với sự thay đổi như thế, tâm lý con người như bị những lực đối kháng.
Một mặt, chê bỏ những điều cũ kỹ, nhưng một mặt, vẫn thấy bâng khuâng ngậm ngùi
trước những vần xoay thay đổi.
Những hình ảnh tràn đầy trong truyện Thanh Tịnh là những con tàu và những sân
ga. Khác với trong truyện ngắn Thạch Lam, con tàu và sân ga là những vật thể
tượng trưng cho năng động và đổi thay (như truyện ngắn “Hai Chị Em”), trong
“Quê Mẹ“ là hình ảnh buồn rầu của một ga tạm mới dựng với những đoàn tàu sắt đi
qua không ghé lại. Cũng có khi là những đoạn đường sắt song song giũa những
cánh đồng cỏ hoang vu, hoặc tiếng còi tàu vang lên ngạo nghễ trong cái không
gian im ắng vô vọng. Đại diện cho cơ khí trong một xã hội còn nhiều nét cổ lỗ
phong kiến, những con tàu sắt là một biểu hiện cho văn minh mà Thanh Tịnh đã
nhìn ngắm với nhiều chủ đích. Trong hình ảnh, chứa đựng những tâm cảm lẫn lộn
giữa náo nức và ngậm ngùi.
“Quê Mẹ” là những chuyện “làng” tên Mỹ Lý. Ở đó có giòng sông, có những bến đò,
có bờ sông xanh ngắt cây cỏ. Có những con người bình dị với những hoài vọng âm
thầm, những tình ca ngập ngừng, những điệu hò mái đẩy đìu hiu. Quê hương của
ông là nơi chốn của thơ mộng huyền ảo, của những lãng mạn thăng hoa thành ngôn
ngữ. Đọc lại, những câu văn mang mang âm hưởng thi ca với văn phong tùy bút
sang cả làm cho trí tưởng tượng như bị kích thích và đi xa hơn những phong cảnh
thường nhật. Có mấy ai, không nghĩ về những phương trời cũ, về ngõ lối xưa khi
tiếp nhận những hình ảnh ấy, tầm thường quen thuộc nhưng lại gợi biết bao nhiêu
nỗi niềm…
Không biết có phải vì cái mơ mộng lãng mạn ấy mà tác giả Quê Mẹ về sau này
không còn cống hiến nào như trước. Là một người chủ trì tạp chí Văn Nghệ Quân
Đội, là một đại tá trong bộ đội, thế mà tính sổ văn chương chỉ có vài bài thơ
và tập truyện ngắn từ thời tiền chiến. Tôi đã đọc nhiều bài viết tưởng niệm ông
và nghĩ rằng ông được nhiều bạn bè cũng như những người đi sau nể trọng. Tôi
nghĩ một cách chủ quan, dù cố thay đổi nhưng con người của thời Quê mẹ, thời mà
ba người đồng hành Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh cùng vào trường văn trận
bút, vẫn không thay đổi. Dù trong cảnh huống nào, vẫn là cậu học trò bỡ ngỡ đến
trường vào buổi đầu thu, vẫn là một con người có trái tim văn chương chứ không
phải trí óc của một chính ủy. Trong những trang Quê Mẹ, vẫn còn đất nước dấu
yêu của mùi hương dù trong tưởng nhớ nhưng cũng làm ngây ngất nhiều người…
Thơ Thanh Tịnh bình dị, truyện ngắn Thanh Tịnh sâu sắc, và hình như trong tất
cả văn mạch của ông phảng phất những nỗi buồn. Hình ảnh ông đồ của thơ Vũ Đình
Liên hình như cũng thấp thoáng trong ngôn ngữ và hình tượng văn chương của ông.
Tấm lòng hoài cổ phát xuất từ niềm yêu thương quê hương thiết tha đã tạo thành
nỗi rung động cho người đọc. Dù mấy chục năm qua đi, dù thời thế xoay vần lưu
chuyển, vẫn còn âm vang vẳng lại những câu tập đọc của bài Tôi Đi Học. Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió
lạnh….
Nguyễn
Mạnh Trinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.