Nhà thơ Chính Hữu
Tên khai sinh: Trần Đình Đắc, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh
Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957)
Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT đợt II (2000)
Tác phẩm chính: Đầu súng trăng treo (1966), Thơ Chính Hữu (1977)
Tên khai sinh: Trần Đình Đắc, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh
Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957)
Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT đợt II (2000)
Tác phẩm chính: Đầu súng trăng treo (1966), Thơ Chính Hữu (1977)
Cũng như nhiều văn nhân trí thức lừng danh khác
có chung gốc Nghệ, Chính Hữu (1926-2007) chính quê Hà Tĩnh, nhưng khi đi học
lại ở Vinh, rồi ra Hà Nội học tiếp để có học vấn và nhãn quan cao rộng hơn.
Trong số mấy chục nhà văn Việt Nam đã được
nhận Giải thưởng cao nhất của Nhà nước là Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học -
Nghệ thuật, Chính Hữu viết ít hơn cả.
Tuyển tập Chính Hữu do NXB Văn
học ra năm 1998 chỉ có khoảng 130 trang in thơ do ông sáng tác (54 bài) và dịch
(5 bài). Đó là một con số không nhiều, rất không nhiều, nhưng không hề đáng
tiếc, bởi cái số lượng này đã là một minh chứng hiện đại cho thành ngữ Quý
hồ tinh bất quý hồ đa mà các bậc túc Nho, các lão nông tri điền xứ Nghệ
vẫn hay coi là một phương châm hành xử từ lâu.
Tìm hiểu cốt cách con người và sáng tác của Chính
Hữu, ta thấy có vài đặc điểm khiến ông có vị thế cao trong làng văn.
Thứ nhất, ông là nhà thơ chiến sĩ. Gọi Chính Hữu
như thế, không chỉ vì ông từng là chiến sĩ, là cán bộ của Trung đoàn thủ đô
lừng danh từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp (1946), không chỉ vì trong môi
trường quân ngũ, từ chiến sĩ, ông đã thành một đại tá… mà hơn thế, là vì: sáng
tác của ông đều viết về người lính, để cho người lính đọc, hoặc nói rộng hơn,
sáng tác của Chính Hữu thường lấy cảm hứng từ cuộc chiến đấu hoặc lao động dựng
xây cuộc sống mới của anh bộ đội và một số ít hơn - là người dân bình thường
trong tư thế của một chiến sĩ: quả cảm kiên cường, chấp nhận gian nguy và vui
cười lạc quan ngay cả khi đang ở thời điểm gian khó, hiểm nghèo.
Chiến tranh cách mạng giải phóng Tổ quốc với hình
tượng nổi bật là người chiến sĩ này là một chủ đề lớn của thơ ca hiện đại Việt Nam. Trong chủ
đề này, Chính Hữu đã có nhiều câu thơ như chạm khắc, như tạc tượng anh bộ đội,
này là anh vệ quốc quân ở thời chống Pháp: Quê hương anh nước mặn đồng
chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá/ Anh với tôi đôi người xa lạ/ Tự phương
trời chẳng hẹn quen nhau… Đêm nay rừng hoang sương muối/ Đứng cạnh bên
nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng treo… Còn đây là lớp lớp thanh niên náo
nức cùng cả nước lên đường đánh Mỹ: Xóm dưới làng trên con trai con gái/
Xôi nắm cơm đùm ríu rít theo nhau/ Súng nhỏ súng to chiến trường chật chội/
Tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu…
Hình tượng anh bộ đội, người chiến sĩ trong thơ
Chính Hữu sống động và phát triển. Là một trí thức trẻ mang cái ý chí của dân
Nghệ và cái hào hoa của thị thành Hà Nội vào quân ngũ, ông mô tả hình ảnh anh
vệ quốc thật hào hùng, đẹp vẻ đẹp của những tráng sĩ muôn năm trước: Đêm
nay ta đi đất trời bốc lửa/ Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng/ Những người
con gái con trai say mê sự tích anh hùng/ Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm/
Rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặm/ Bụi trường chinh phơi bạc áo hào hoa.
Càng về sau, hình tượng người chiến sĩ trong thơ
ông càng đẹp vẻ đẹp chân thực hơn. Nhiều khi, hình tượng ấy hoà nhập với hình
tượng đất nước Việt Nam kiên trung son sắt Như ngọn đèn đứng gác, như
bước chân thần tốc trong chiến dịch tổng tiến công Xuân 1975, và cũng có lúc
lại chính là hình ảnh của một Cô gái công binh Trường Sơn: Chỉ mái tóc em
là xanh/ Trên ngọn đèn cháy trụi/ Trong tiếng đạn bom dữ dội/ Chỉ tên em là
nghe dìu dặt hiền lành.
Viết về người lính, với Chính Hữu, là viết về Tổ
quốc Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh, để gửi gắm bao tình mến thương, cảm
phục, và tự hào theo cái cách riêng của ông ở những vần thơ hàm súc, có ngôn từ
bình dị mà giàu nghĩa biểu trưng.
Thứ hai, cái chất thơ bình dị mà giàu nghĩa biểu
trưng trong tác phẩm Chính Hữu, vốn có nguồn gốc từ con người ông - một thanh
niên có học thức quả quyết đi ra trận, một cán bộ chính trị dày dạn, một người
đàn ông hay trầm tư ngẫm nghĩ… Con người ấy sinh ra cái chất thơ ấy, nên đọc
thi phẩm của ông, bên cạnh hình tượng người chiến sĩ sáng đẹp hào hùng, ta thấy
có hình tượng một Người bộ hành lặng lẽ. Trong bài thơ này, ông bộc
lộ: Đi bộ là hành vi đẹp nhất/ Của con người/ Tôi hướng đến tận niềm vui/
Của cái lặng im trong sự cô độc/ Đó là trạng thái/ hạnh phúc/ Để nghĩ được
nhiều/ Và làm được nhiều việc.
Thơ như nói, tự nhiên, ít vần điệu mà như chỉ chú
tâm diễn đạt ý tưởng, cái ý tưởng ngỡ như trái khoáy, khó hiểu, nhưng đọc tiếp,
ta thấy rõ dần: Tôi đi giữa lòng Hà Nội/ Gặp vô vàn con người ai cũng dễ
thương/ Vì tôi chỉ đi, chỉ ngắm, chỉ nhìn, không nói nhiều nên không phải cãi
lại/ Tâm hồn không bị khét lên vì mùi ét xăng hiện đại…
Thơ là bức chân dung tự hoạ, đôi khi như vô thức
mà nên. Lại nói về tình yêu, Chính Hữu cho ta hiểu về ông là: không nói/ Ấy
là đã nói/ Tiếng đàn im bặt càng nghe tiếng ngân/ Khi yêu lặng câm/ Ấy là yêu
mãi.
Thơ Chính Hữu có cái điệu lí bên trong, có cái
nhạc điệu của tấm lòng chứ không chỉ ở âm vang của vần điệu thanh âm. Nghệ
thuật ấy hài hòa với ý tưởng, cho ta nhận ra đặc sắc và vị thế của một thi nhân
đảm lược và tự tin.
Ngyên An
(Theo VanVN.Net)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.