Ai đã từng đọc “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa
Điềm chắc chắn không thể quên được tình cảm yêu thương nồng thắm của người mẹ
Tà ôi vừa địu con vừa làm rẫy. Nhạc điệu qua mỗi khúc ru là những cung bậc tình cảm khác nhau của người
mẹ đối với đứa con, với quê hương đất nước. Cùng mạch chủ đề này, nhà thơ người
dân tộc Tày - Y Phương cũng có bài thơ “ Nói với con”. Mượn lời của người cha
nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, bộc lộ niềm
tự hào, sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương mình.
Mở đầu bài thơ là một
khung cảnh gia đình ấm cúng đầy ắp tiếng
nói tiếng cười:
“ Chân phải
bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
Một mái nhà có cha và mẹ,
con lớn lên trong tình thương yêu, sự ấp ủ chở che, nâng đón và mong chờ của
cha mẹ. Chỉ bốn câu thơ thôi, Y Phương đã tạo được không khí gia đình ấm áp,
quấn quýt. Từng bước đi, tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ mừng vui
đón nhận. Hơn thế nữa, đứa con còn sinh ra, trưởng thành trong cuộc sống lao
động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình trên vùng đất quê hương :
“ Người đồng
mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày
cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
Trong đoạn thơ, tất cả những suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc
đều được diễn đạt trực tiếp bằng hình ảnh. Nhà thơ đã vận dụng tự nhiên lối
diễn đạt của người niền núi để xây dựng
thành công những hình ảnh thơ, làm cho những hình ảnh ấy vừa cụ thể vừa mang
tính khái quát cao mà vẫn giàu chất thơ, bay bổng vẻ đẹp trong cuộc sống người
dân miền núi : “ Đan lờ cài nan hoa - Vách nhà ken câu hát - Rừng cho hoa - Con
đường cho những tấm lòng”. Đan lờ bằng những nan hoa cài vào nhau, vách nhà
được ken vào câu hát. Cuộc sống lao động của quê hương đầy ắp niềm vui. Những
đêm hội hè lời ca tiếng hát vang vọng núi rừng. Những câu hát đối nhau đầy ắp ân tình giữa những chàng trai cô gái, vách
nhà ken đầy tiếng hát yêu thương… Cuộc sống của bản làng mộc mạc mà chan chứa
niềm vui, niềm hạnh phúc.
Đứa con còn được trưởng thành giữa núi rừng hùng vĩ.
Thiên nhiên bao đời nay gắn bó nghĩa tình, không chỉ che chở, bảo bọc mà còn
nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn lối sống. Qua những vần thơ vừa tả thực vừa
đậm chất trữ tình, người cha muốn cho con mình thấy được những vẻ đẹp , vẻ nên
thơ của cuộc sống làng quê để mà yêu, mà nhớ.
Cách diễn đạt độc đáo ấy
còn được thể hiện ở những câu thơ tiếp theo:
“ Người đồng
mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”
Tác giả mượn lời người cha
nói về sức mạnh truyền thống, lòng thuỷ chung với quê hương. Câu thơ bốn chữ,
đối nhau như tục ngữ, đúc kết một thái độ một phương châm ứng xử cao quý. Lấy chiều cao của trời, của núi để “đo nỗi
buồn”, lấy chiều xa của đất, của rừng để
“nuôi chí lớn”. Câu thơ thể hiện một bản lĩnh sống cao đẹp của người dân miền
núi. Họ chính là những “người đồng mình” sống vất vả mà mạnh mẽ, khoáng đạt. Họ
bền bỉ gắn bó với quê hương mặc dù quê hương vẫn còn lắm đói nghèo, cực nhọc.
Đọc thơ, ta như gặp lại tầm vóc kì vĩ của những anh hùng trong các bản trường
ca “ Đăm San”, “ Xinh Nhã”.
Lời tâm tình của người cha
nói với con cũng là lời khuyên răn con
phải biết trân trọng mảnh đất quê hương, nơi mình sinh ra và lớn lên, phải biết
sống hồn nhiên cần cù lạc quan để vượt qua gian khó.
“ Dẫu làm sao
thì cha vẫn muốn
Sống trên đá
không chê đá gập ghềnh
Sống
trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Trong
câu thơ, ta bắt gặp những hình ảnh ẩn dụ, so sánh, thành ngữ dân gian. Điệp ngữ
“ sống” vang lên ba lần như lời khẳng định một tâm thế, một bản lĩnh, một dáng
đứng… của “người đồng mình”. Lời thơ giản dị mà thấm thía, lay động tâm hồn.
Điều người cha vẫn muốn vẫn hi vọng ở con là phải sống thuỷ chung tình nghĩa
với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua thử thách gian nan bằng ý chí niềm
tin của mình. Lời khuyên ấy cũng chính là bài học đạo lí làm người.
Những câu thơ tiếp theo là lời khẳng định với
con, “ người đồng mình” tuy mộc mạc thô sơ nhưng không nhỏ bé:
“ Người đồng mình thô sơ
da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
Ở đây, ta bắt gặp lối nói độc đáo
của người dân miền núi “ thô sơ da thịt”, “ nhỏ bé”, “tự đục đá kê cao quê hương”..
Bằng những hình ảnh cụ thể người cha
khái quát lên thành bản lĩnh sống, tinh thần tự
tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội của những “người đồng mình”- những con
người của quê hương rừng núi. Chính những con người mộc mạc chân chất ấy bằng
sự lao động cần cù nhẫn nại hằng ngày đã làm nên quê hương với những phong tục
tập quán tốt đẹp.
Những lời cuối nói với con càng trở
nên tha thiết:
“ Con ơi tuy thô sơ da
thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”
Mai sau, “ lên đường” để bay đến
những chân trời xa, người cha ân cần căn dặn con không bao giờ được sống tầm
thường, nhỏ bé , phải biết giữ lấy cốt
cách giản dị mộc mạc của người lao động, phải làm những điều cao thượng lớn
lao. Lời thơ tha thiết, người cha đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh của
truyền thống quê hương.
Tóm lại, với thể thơ tự do bay bổng
phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên tạo ra sự cộng hưởng hài hoà với những cung
bậc tình cảm khác nhau trong lời cha truyền thấm sang con. Nhà thơ Y Phương đã
thấu hiểu và lột tả được tâm hồn tính cách, tình cảm của người dân miền núi.
Khúc tâm tình của người cha trong thơ cũng là lời dặn dò của lớp người trước
gửi trao thế hệ mai sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.