Nguyễn
Dữ, tác giả truyện Truyền kỳ mạn lục nổi tiếng sống ở thế kỷ XVI, xuất thân
trong gia đình có cha đỗ tiến sĩ cuối đời Hồng Đức, quê làng Đỗ Tùng, huyện Gia
Phúc, nay là Đỗ Lâm, Tứ Lộc, Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm, đỗ hương tiến (tức cử nhân), có làm tri huyện một thới gian rồi cáo
quan về quê sống ẩn dật, phụng dưỡng mẹ già và viết sách. Tác phẩm Nguyễn Dữ để
lại có Truyền kỳ mạn lục, một tác phẩm được đánh giá là "thiên cổ kỳ
bút".
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
hiện còn, là một bản trùng san, in năm 1763, có phần dịch ra Nôm và chú thích
cẩn thận, với tên gọiTân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, gồm 20
truyện.
Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có ảnh hưởng rất lớn
trong đời sống văn học nước nhà đương thời cũng như rất lâu về sau. Chính
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã là người hiệu đính cho tác phẩm này. Nhiều văn nhân có
tiếng tăm đã bình luận, khen ngợi cái hay, cái lạ của bút lực Nguyễn Dữ trong Truyền kỳ mạn lục và nó từng mấy lần được khắc in. Sau
Nguyễn Dữ, có một nhân vật tiếp bước là Nguyễn Diễn Trai viết Truyền văn tân lục kể về những chuyện lạ của các nhân vật
hiển đạt từ thời Lý đến thời Lê, Đoàn Thị Điểm soạn Tục truyền kỳ, tức Truyền ký tân phả,
chép các chuyện kinh dị, ly kỳ.
Trong Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ viết về các nhân vật, các sự
việc kỳ lạ xảy ra thời Lý, Trần, Hồ và thời Lê sơ. Bằng trí tưởng tượng phong
phú và bằng một bút pháp linh hoạt, tác giả Truyền
kỳ mạn lục đưa người đọc
vào một thế giới huyền bí vừa có người, vừa có thần, hư hư thực thực nhưng qua
những gì thêu dệt ấy vẫn hiện rõ một thế giới thật của cuộc đời thực mà ở đó
chúng ta thấy cả những kẻ có quyền thế độc ác, đồi bại. Có thể nói đó chính là
hình ảnh của xã hội Nguyễn Dữ đang sống và của những thời kỳ mạt vận, một xã
hội phong kiến lúc suy yếu, mục nát. Tuy nhiên, bên cạnh sự tung hoành của cái
xấu cái ác, tác giả Truyền
kỳ mạn lục vẫn nhìn thấy
những phẩm cách lương thiện, trung trinh, những tâm hồn thanh cao, những tình
người đằm thắm của cái Thiện vĩnh hằng đã hiện lên rực rỡ, sống
động, lung linh dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Dữ.
Trong 20 truyện ông viết, truyện
nào cũng thể hiện một quan điểm chính trị, một thái độ nhân sinh, một ý tưởng
đạo đức nghiêm túc. Đó là những mong muốn của Nguyễn Dữ về một xã hội yên bình
trong nền đức trị, trong sự công bằng, trong tình cảm yêu thương nhân ái giữa
người và người...
Nhân đọc cuốn Cổ kim quái dị tập thành của văn học Trung Quốc, tôi lại xốn
xang nhớ về ông-Nguyễn Dữ, một con người tài hoa và tác phẩm của ông, những tác
phẩm có tầm nhìn nhân văn cao cả.
Nguyễn Hạnh (Theo tư liệu văn học cổ Việt Nam
qua kho tàng Hán Nôm)
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
Đọc – Hiểu văn bản :
1. Truyện có thể chia làm 3 đoạn :
+ Đoạn 1 : từ đầu đến “lo liệu như đối với
cha mẹ đẻ mình”, nói về cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa
cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
+ Đoạn 2 : “Qua năm sau … nhưng việc trót đã
qua rồi”, nói về nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.
+ Đoạn 3 : phần còn lại, Vũ Nương được cứu và
sống ở thủy cung của Linh Phi. Nỗi oan được giải nhưng nàng quyết không trở lại
trần gian.
2. Nhân vật Vũ Nương :
“Chuyện người con gái Nam
Xương” là chuyện về nàng Vũ Nương – vợ chàng Trương Sinh : “Vũ Thị Thiết,
người con gái Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại
thêm tư dung tốt đẹp”. Nếu truyện cổ tích thường chỉ thiên về cốt truyện và
hành động của nhân vật, thì ở đây, dưới ngòi bút sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn
Dữ, nhân vật hiện lên có đời sống, có tính cách rõ rệt hơn nhiều. Tác giả đã
đặt nàng Vũ Nương vào nhiều tình huống khác nhau để khắc họa tính cách nhân vật.
2.1. Trong cuộc sống
vợ chồng bình thường : chồng có tính đa nghi, nhưng nàng đã
là một người vợ tốt, biết giữ đạo làm vợ, lúc nào cũng “giữ gìn khuôn phép,
không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”.
2.2. Khi tiễn chồng
đi lính, nàng rót
rượu tiễn chồng và nói những lời mà ai nghe cũng “đều ứa hai hàng lệ”.
Nàng không mong vinh hiển mà chỉ mong cho chồng được bình an trở về : “Chàng
đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, trở về
quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó
là mong ước hết sức bình thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát
cuộc sống gia đình bình yên. Tình thương chồng còn thể hiện qua sự cảm thông
những vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng : “Chỉ e việc quân khó
liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi
thế chẻ tre chưa có…”, qua nỗi khắc khoải nhớ nhung : “mà mùa dưa chín
quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành
cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, lại thổn
thức tâm tình, thương người đất thú ! Dù có thư tín ngàn hàng, cũng sợ không có
cánh hồng bay bổng”. Trong nỗi niềm của người vợ xa chồng, nàng cảm thông
cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con.
2.3. Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng
tha thiết. Tác giả đã miêu tả thật xúc động nỗi buồn thương nhớ chồng khắc
khoải triền miên theo thời gian : “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi
khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời
không thể nào ngăn được”. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi,
mùa xuân vui tươi – “bướm lượn đầy vườn”, mùa đông ảm đạm – “mây che
kín núi”, còn lòng người thì chỉ dằng dặc một nỗi buồn thương.
Nàng còn là người mẹ hiền,
dâu thảo. Chồng đi chinh chiến xa xôi, một mình nàng vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm
sóc mẹ chồng. Cách chăm sóc của nàng thật cảm động. Mẹ già đau ốm, “nàng hết
sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”.
Lời trối trăng của bà mẹ chồng trước khi mất chính là một sự ghi nhận nhân cách
và đánh giá cao công lao của nàng đối với gia đình nhà chồng : “Một tấm thân
tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi
xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời
xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, trời
xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Mẹ mất, “nàng
hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”.
Nàng làm tất cả những việc đó không phải vì trách nhiệm mà vì tình nghĩa thực
sự trong lòng.
Vũ Nương là người phụ nữ có
phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Namtruyền
thống.
2.4. Khi bị chồng
nghi oan :
+ Nàng một mực phân trần để
chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng nói về thân phận mình : “Thiếp vốn con nhà kẻ
khó, được nương tựa nhà giàu”. Nàng nói về tình nghĩa vợ chồng và
khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng của mình : “Sum họp chưa thỏa
tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một
tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót.
Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói”. Nàng cầu xin chồng đừng nghi
oan : “Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan
cho thiếp”. Trong những lời nói ấy, Vũ Nương đã cố gắng tìm mọi cách để hàn
gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
+ Vũ Nương hết lời phân
trần nhưng Trương Sinh vẫn không tin, vẫn “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”.
Ngay đến cái quyền được tự bảo vệ mình, nàng cũng không có. Lời nói của nàng
thâu tóm tất cả những đau khổ của một đời phụ nữ. Hạnh phúc gia đình – “cái
thú vui nghi gia nghi thất”, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ. Tình
yêu cũng không còn : “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao,
liễu tàn trước gió ; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn”.
Ngay cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm
lại được nữa : “nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng phu kia
nữa”.
+ Mọi cố gắng của Vũ Nương
đều trở thành vô ích. Không thể giải được nỗi oan khuất, tất cả đã tan vỡ, nàng
đau khổ tuyệt vọng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong trắng, mượn nước
sông để rửa sạch tiếng nhơ oan ức. “Nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng
Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng :
- Kẻ bạc mệnh này duyên
phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần
sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch
gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược
bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin
làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”.
Lời than như một lời
nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng,
của một “kẻ bạc mệnh” đầy đau khổ. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành
động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Truyện cổ tích miêu tả việc tự
tử của nàng như một hành động bột phát trong cơn tuyệt vọng : “Vũ Nương chạy
một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước”. Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ,
hành động ấy có nỗi đau khổ tuyệt vọng nhưng cũng có sự tham gia của lí trí. Có
thể thấy rõ điều đó qua chi tiết nàng “tắm gội chay sạch” trước khi
quyên sinh, và lời nguyền của nàng rất rõ ràng, dứt khoát. Cái chết của Vũ
Nương thể hiện nỗi đau khổ của nàng đã lên đến tột cùng.
Vũ Nương là một người phụ
nữ xinh đẹp, thùy mị, nết na, hiền thục, lại đảm đang tháo vát, phụng dưỡng mẹ
chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh
phúc gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, thế nhưng lại phải
chết một cách oan uổng, đau đớn. Câu chuyện về Vũ Nương đã thể hiện sâu sắc số
phận bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phụ quyền phong kiến đầy bất công.
3. Nhân vật Trương Sinh :
3.1. Trương Sinh là “con nhà hào phú,
nhưng không có học”. Trương lấy Vũ Nương nào phải là tình yêu, mà chỉ là “mến
vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Mầm mống bi kịch của
Vũ Nương có lẽ đã bắt đầu từ những yếu tố này. Cuộc hôn nhân vốn đã không bình
đẳng giữa nam và nữ, lại thêm sự cách bức giàu nghèo : Vũ Nương “vốn con kẻ
khó”, lấy Trương Sinh là “được nương tựa nhà giàu”. Vũ Nương sẽ là
nạn nhân của một chế độ đầy bất công.
3.2. Trong đời sống vợ chồng, Trương là người
chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”.
3.3. Hết chiến tranh, Trương Sinh trở về và
đối diện với nỗi mất mát : mẹ già thương nhớ con nên sinh bệnh và đã qua đời.
Trong hoàn cảnh và tâm
trạng như thế, tính tình chàng càng dễ bị kích động. Lời nói ngây thơ của con
trẻ đã kích động tính ghen tuông của Trương. Tác giả đã xây dựng đoạn truyện
này bằng những chi tiết đầy kịch tính. Chàng bế con, “đứa trẻ không chịu, ra
đến đồng, nó quấy khóc”. Chàng dỗ dành, đứa con ngây thơ nói “Ô hay !
Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước
kia chỉ nín thin thít”. Lời nói được tách ra thành hai phần, phần sau thông
tin càng “ghê gớm” hơn phần trước. Làm sao Trương Sinh khỏi bàng hoàng khi biết
đứa trẻ có những hai người cha, người cha – Trương Sinh biết nói còn người cha
trước kia “chỉ nín thin thít” ? Sau đó lại thêm những thông tin : “một
người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng
chẳng bao giờ bế Đản cả”. Tục ngữ có câu : “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”,
trẻ con bao giờ cũng nói thật. Những lời nói ngây thơ của đứa con khiến người
ta không thể không nghĩ đến cảnh tượng của một đôi gian phu dâm phụ, huống chi
là Trương Sinh : “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư,
mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. (Cách dẫn dắt tình
tiết như vậy là rất chân thực và khéo léo.)
Tuy nhiên, điều đáng trách
là cách xử sự của Trương Sinh. Con người ít học này đã hành động một cách quá
nông nổi và hồ đồ. Không cần hỏi đến vợ nửa lời, vừa về đến nhà, chàng đã “la
um lên cho hả giận”. Chàng không còn bĩnh tĩnh để phân tích, phán đoán, mặc
kệ những lời phân trần của Vũ Nương, rồi “họ hàng làng xóm bênh vực và biện
bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì”. Cách duy nhất để làm sáng tỏ mọi
chuyện là giải quyết chính cái nguyên nhân gây xung đột : kể lại câu chuyện của
đứa trẻ. Nhưng điều tệ hại nhất là chàng cũng không cho nàng cơ hội để minh oan
khi nhất quyết “giấu không kể lời con nói”. Trương Sinh từ một người
chồng độc đoán, ghen tuông mù quáng, đã trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo : “mắng
nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”. Hàng động ấy đã bức tử Vũ Nương, đã buộc
người phụ nữ đáng thương ấy phải chết một cách bi thảm. Đáng giận hơn nữa là
cái chết của Vũ Nương vẫn không thể làm cho Trương tỉnh ngộ để tin nàng trong
sạch. Chàng vẫn “giận là nàng thất tiết” và chỉ “động lòng thương”.
Nhân vật Trương Sinh là
hiện thân của chế độ phụ quyền phong kiến bất công. Sự độc đoán, chuyên quyền
đã làm tê liệt lí trí, đã giết chết tình người và dẫn đến bi kịch.
4. Những yếu tố kì ảo :
Truyện cổ tích “Vợ chàng
Trương” kết thúc ở chỗ thằng bé chỉ cái bóng trên tường, Trương Sinh tỉnh ngộ
và thấu nỗi oan của vợ. Kết thúc như thế đã là có hậu vì nỗi oan của Vũ Nương
đã được giải. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và
những giá trị mới.
4.1. Câu chuyện ở trần gian đã chấm dứt, tác
giả mở tiếp câu chuyện ở thế giới thần linh. Sức hấp dẫn của đoạn truyện này,
trước hết và chủ yếu, là ở những yếu tố hoang đường, yếu tố kì ảo : Phan Lang
nằm mộng thấy người con gái áo xanh, rồi thả rùa mai xanh ; Phan Lang lạc vào
động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương ; câu chuyện Vũ Nương
được tiên rẽ nước cứu mạng đưa về thủy cung ; Phan Lang được sứ giả Xích Hỗn rẽ
nước đưa về dương thế ; hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn
giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang, lung linh huyền ảo với “một chiếc kiệu
hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực
rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện”, rồi sau đó “bóng nàng loang loáng mờ
nhạt dần mà biến đi mất” trong chốc lát. Dẫu biết rằng đó chỉ là những yếu
tố hoang đường, nhưng người đọc vẫn cảm thấy gần gũi và chân thực bởi tác giả
đã khéo kết hợp với những yếu tố thực về địa danh , về thời điểm lịch sử, sự
kiện và nhân vật lịch sử, những chi tiết về trang phục của các mĩ nhân và Vũ
Nương, câu chuyện của Phan Lang về tình cảnh nhà Vũ Nương sau khi nàng mất.
4.2. Ý nghĩa của
những yếu tố kì ảo :
+ Trước hết, những yếu tố
kì ảo có ý nghĩa hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù ở thế giới
khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ
tiên, thương nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng “ứa
nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng :
- Có lẽ, không thể gửi
hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió
bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”.
Và dù không còn là con
người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khao khát được phục
hồi danh dự : “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa
cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi
sẽ trở về”.
+ Điều quan trọng hơn, là
những yếu tố kì ảo đó đã tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm, thể hiện mơ
ước ngàn đời của nhân dân về lẽ công bằng : người tốt dù có trải qua bao oan
khuất, cuối cùng cũng được đền trả xứng đáng, cái thiện bao giờ cũng chiến
thắng.
Tuy nhiên, kết thúc có hậu
vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về uy nghi, rực
rỡ nhưng chỉ thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện ở giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy
ngậm ngùi “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong
chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến mất”. Nàng không thể
trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi : “Thiếp
cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”, mà điều chủ yếu
là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người
bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải, nhưng hạnh
phúc thực sự đâu có thể tìm lại được nữa. Sự dứt áo ra đi của Vũ Nương biểu
hiện thái độ phủ định cõi trần thế với cái xã hội bất công đương thời, cái xã
hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm
thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế đôï
phong kiến.
So với truyện dân gian, kết
thúc truyện của Nguyễn Dữ cũng làm tăng thêm sự trừng phạt đối với Trương Sinh.
Vũ Nương không trở về, Trương Sinh càng phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình.
C. Tổng kết :
“Chuyện
người con gái Nam Xương” khẳng định nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam,
đồng thời cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới
chế độ phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng
nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và kịch.
bài văn chưa sáng tạo đoạn kết của truyện
Trả lờiXóahay !
Trả lờiXóa