ĐỀ : Nhận xét về thơ Bà Huyện Thanh Quan, SGK
Văn học 9 ( chương trình cải
cách) có viết:
“… Thơ bà thể hiện lòng yêu mến cảnh quan
thiên nhiên đất nước, tâm sự u hoài trước thế sự đổi thay, bài nào cũng buồn thương
da diết…”
Em hãy phân tích bài thơ
“Qua Đèo Ngang” để chứng minh làm rõ nhận định trên.
|
Qua việc tìm hiểu, phân tích bà thơ
“Qua Đèo Ngang” của bà, chúng ta sẽ làm sáng tỏ nhận định trên.
Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu
khái quát tòan cảnh không gian và thời gian:
“ Bước tới
Đèo Ngang bóng xế tà”
Không gian là Đèo Ngang, thời gian
là buổi xế tà. Nhà thơ đến với Đèo Ngang khi một ngày vừa lụi tắt. Anh tà dương
đã khuất sau rặng núi phía Tây. Cụm từ “ bóng xế tà” lấy ý từ thành ngữ dân
gian “chiều tà bóng xế” gợi lên trong lòng người đọc một cảm giác buồn mênh
mang. Cảm giác ấy cứ lan tỏa dần theo vần “ a” ngân dài ở cuối câu như một nốt
nhạc trầm sâu lắng. Không biết từ bao giờ, cảnh hòang hôn luôn gợi lên trong
lòng người một cảm giác buồn da diết. Cảm giác này cùng với không gian chiều tà
luôn là bối cảnh nền trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
“ Chiều trời
bảng lảng bóng hòang hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn” ( Chiều hôm nhớ nhà )
Hoặc trong bài “Thăng Long thành
hoài cổ” ta cũng gặp hình ảnh tương tự:
“ Dấu xưa xe
ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”
Trên cái nền trời “ xế tà”, tác giả
tiếp tục ngắm nhìn khung cảnh Hòanh Sơn. Trong ánh mắt nhà thơ, cảnh vật hiện
lên thật đẹp nhưng cũng thật hoang sơ:
“ Cỏ cây
chen đa, lá chen hoa”
Cỏ cây chen với đá, lá xen lẫn với
hoa. Phép liệt kê kết hợp với nghệ thuật điệp từ, nhân hóa “ chen” làm cho mọi
vật vừa xô bồ lại vừa sống động. Chúng như có hồn, đang cố chen chúc nhau ngoi
lên đón chút ánh sáng thừa còn sót lại ở trời Tây. Cảnh Đèo Ngang hoang vu vang
lặng và đượm một cảm giác buồn khó tả.
Từ trên đỉnh đèo, tác giả phóng tầm
mắt nhìn ra xung quanh. Bức tranh Đèo Ngang lại xuất hiện thêm những hình ảnh
mới qua nét bút của thi nhân:
“ Lom khom
dưới núi tiều vài chu
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Nhà cửa và con người đã xuất hiện
trong thơ, nhưng điều đó không làm cho cảnh vật Đèo Ngang bớt đi cái cảm giác
buồn cô liêu hoang vắng. Con người chỉ là vài chú tiều đang lom khom đi dưới
núi, nhà cửa chỉ có mấy căn nhà chợ rải rác bên sông. Các từ gợi tả “lom khom” “lác
đác” được đảo ra đầu câu như muốn khắc họa
sự bé nhỏ thưa thớt của đối tượng miêu tả. Tất cả như hòa lẫn, mất hút
trong cái mênh mông lặng lẽ ở Đèo Ngang. Hình ảnh trong thơ đẹp như một bức
tranh thủy mặc nhưng sao ta vẫn cảm thấy ẩn chứa trong đó một nỗi buồn mang
mác.
Nỗi buồn khó tả trong câu thơ được
tăng lên gấp bội khi bức tranh tả cảnh Đèo Ngang được điểm tô thêm bởi tiếng
kêu khắc khoải của chim rừng:
“ Nhớ nước
đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Nhà thơ chuyển đổi cảm nhận từ thị
giác sang thính giác để lắng nghe giữa muôn ngàn âm thanh của rừng núi tiếng
kêu da diết của con chim quốc quốc, chim gia gia. Hòan tòan không phải là
một sự ngẫu nhiên. Con chim quốc gợi nhớ về một điển tích xa xưa, vua nước Thục
mất nước hóa thành chim, mãi kêu gào về một đất nước đã không còn. Còn chim gia
gia, tiếng kêu thương về nỗi niềm xa cách quê nhà. Tiếng kêu thiết tha của chim
hay chính là tiếng lòng của tác giả, một nữ sĩ tài hoa, một người lữ khách rời
xa quê hương với Thăng Long huy hòang trong quá khứ, rời xa gia đình để vào
kinh đô Huế nhận một chức nữ quan.Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo cùng phép
tu tư nhân hóa, đảo ngữ đã diễn tả một cách sống động ngoại cảnh và tâm cảnh.
Từ nhìn thấy, đến nghe thấy rồi cảm
thấy. Tâm sự của nhà thơ được cô đọng lại ở hai câu Kết chính là:
“ Dừng chân
đứng lại: trời, non, nước
Một
mảnh tình riêng, ta với ta”
Câu thơ khái quát cảnh và
tình của cả bài thơ. Trước mắt nhà thơ là khỏang không gian mênh mang rộng lớn
ở Đèo Ngang. Và đứng trước cái bao la vô cùng vô tận ấy, con người bỗng trở nên
nhỏ bé cô đơn đến lạ lùng. “Một mảnh tình riêng” không ai chia xe, chỉ một mình
nhà thơ đối diện với chính mình. Cụm từ “ta với ta” cực tả cái cảm giác cô đơn
của người lữ khách trên Cảnh càng mênh
mông, tâm hồn càng trở nên trống trải. Hai chi tiết tương phản nhau khắc họa
đậm nét nỗi niềm của tác giả
Tóm lại, đọc bài thơ “Qua
Đèo Ngang”, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp hoang sơ nhưng hùng vĩ của “đệ nhất
hùng quan” đất nước. Vẻ đẹp ấy được tô điểm bởi bàn tay tài hoa của nữ sĩ Bà
Huyện Thanh Quan. Phải thật sự yêu thiên nhiên, hòa mình vào cảnh vật thiên
nhiên cuộc sống, nhà thơ mới có những vần thơ hay và trang nhã đến thế. Có thể
nói, Bà Huyện Thanh Quan đã gửi hết tâm tư tình cảm, nỗi lòng cua mình vào
trong từng nét bút vần thơ. Để rồi, trong mỗi nét đẹp của thiên nhiên đều ẩn
chứa tâm sự buồn thương của tác giả. Đúng như lời thơ của đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du :
“Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.