Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2013

Tháp Bà Ponagar

TRONG CHƯƠNG TRÌNH TRẠI, CHÚNG TA CÓ THAM QUAN DANH THẮNG VIỆT NAM: THÁP BÀ PO NAGAR. SAU ĐÂY LÀ TƯ LIỆU VỀ ĐỊA DANH NỔI TIẾNG NÀY.

Đến thành phố biển Nha Trang, bạn không thể đến thăm khu Tháp Bà Ponagar - một trong những di tích lịch sử và văn hoá (đã được nhà nước xếp hạng) nổi tiếng của thành phố nàỵ
Tháp bà Ponagar là một quần thể tháp với lối kiến trúc độc đáo của dân tộc Chăm, được xây dựng và tu bổ qua nhiều thời kỳ Cù Lao, nằm sát tả ngạn sông Cái Nha Trang. Từ dưới chân núi ngay sát quốc lộ, theo những bậc đá đi lên bạn sẽ gặp một khu đất bằng phẳng khoảng hơn 200m2, có 10 trụ gạch lớn cao trên 5m xếp thành bốn hàng trên nền gạch rộng. Theo các bậc đá lên cao mãi tới đỉnh núi là một nền đất rộng khoảng 500m2. Nơi này hiện có bốn ngôi tháp, hai miếu thờ và một nhà nghỉ. Hai ngôi tháp lớn, một cao 18m, một cao 22,48m, được xây bằng gạch nung. Tháp lớn xây thành 4 tầng, mỗi tầng đều có cửa giả, tượng thần và hình thú bằng đá. ở 4 góc có 4 tháp nhỏ, tạo những đường nét hết sức độc đáọ Tháp lớn nhất thờ nữ thần Ponagar (tiếng Chăm có nghĩa là Mẹ Xứ Sở). Tượng nữ thần bằng đá hoa cương, đặt trên bệ đá hình đài sen, lưng tựa vào phiến đá lớn tạo hình lá đề. Tượng cao 260cm. Những đường nét trên thân hình tượng chắc, khoẻ, sống động, hai bầu vú căng tròn đầy sức sống và những nếp nhăn ở bụng tưởng như đang phập phồng theo hơi thở. Theo truyền thuyết, ngày xưa tại núi Đại An (Đại Điển)
có hai vợ chồng tiều phu đến cất nhà và làm rẫy trồng dưa nơi triền núị Suốt một thời gian dài, hễ trái dưa nào chín tới đều bị mất. Ông lão rình và một hôm bắt gặp một cô bé khoảng 9-10 tuổi hái dưa rồi chơi dỡn dưới trăng. Thấy cô bé dễ thương, ông bèn đem về nuôi và thương yêu như con ruột. Hôm đó, trời mưa to gió lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã, cô bé lấy đá chất thành ba hòn dã sơn và hái hoa lá cắm vào rồi đứng ngắm làm vuị
Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông tiều lớn tiếng rầy lạ Không ngờ co bé là tiên giáng trần buồn nhớ cảnh bồng laị Đang buồn lại chợt nhìn thấy một khúc kỳ nam theo nước trôi đến, thiều nữ bèn hiến thân vào khúc kỳ nam cho sóng đưa đẩỵ Khúc kỳ nam trôi ra biển rồi tấp vào đất Trung Hoa, hương toả ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ kéo đến xem. Thấy gỗ tốt, họ bèn xúm vào khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không khiêng nổị
Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn bèn tìm đến xem hư thực và giơ tay nhấc thử. Thật kỳ lạ khi khúc gỗ bỗng nghẹ như tờ giấy, chàng liền đem về cung và nâng niu như báu vật. Một đêm, dưới ánh trăng mờ, thái tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam, nhưng lại gần xem thì tứ bề vắng vẻ, chỉ phảng phất mùi hương từ khúc kỳ nam bay rạ Những đêm sau đó, thái tử vẫn tiếp tục theo dõị.. Rồi một đêm, chàng thấy từ trong khúc kỳ nam bước ra một giai nhan tuyệt sắc. Chàng vụt chạy đến, ôm choàng lấy giai nhân. Không biến kịp vào khúc kỳ nam, giai nhân đành theo thái tử về cung và cho biết lai lịch cũng như danh tính là Thiên Y Anạ Thái tử thấy nàng Ana xinh đẹp khác thường bèn tâu phụ hoàng xin cưới làm vợ. Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc, sinh được hai con - một trai một gái, dung mạo khôi ngô tuấn tú. Một hôm, nỗi nhớ quê hương thúc giục, Thiên Y bồng hai con nhập vào kỳ nam trở về làng cũ.
Núi Đại An còn đó, nhưng vợ chồng ông tiều phu đã về cõi âm. Thiên Y xây đắp mồ mả cho cha mẹ nuôi và sửa sang nhà của để phụng tự. Thấy nhân dân địa phương còn lạc hậu, bà dạy cày cấy, kéo vải, dệt sợi và đặt ra các lễ nghị.. Từ đó, ruộng nương luôn tươi tốt, đời sống nhân dân mỗi ngày một thêm phong lưụ Đến một ngày, có con chim hạc từ trên mây bay xuống, Thiên Y cùng hai con cưỡi hạc bay về trờị..
Nhân dân địa phương nhớ ơn đức của Bà Thiên Y nên năm 817 đã xây tháp và tạc tượng thờ phụng. Hàng năm, vào ngày bà thăng thiên (23/3 âm lịch) đều có tổ chức lễ múa bóng dâng hoa rất long trọng.

THIÊN Y A NA VÀ THÁP BÀ - Po Nagar

Tháp Bà có tên chính thức là Kalan Po Nagar (Tháp Po Nagar), tức đền tháp thờ thần Po Nagar (tiếng Chăm là Yan Po Nagar). Thật ra Po Nagar không phải là một vị thần Ấn giáo, mà là Nữ vương thời Chiêm Thành còn mang tên Hoàn Vương Quốc (646-653). Theo lời truyền tụng Nữ vương có nhiều công lao xây dựng vương quốc phồn thịnh (lúc đó Việt Nam vẫn còn trong thời kỳ Bắc thuộc), theo tập tục tín ngưỡng bản địa được người Chăm tôn lên làm thần chủ về đất đai và nông nghiệp hay Bà Mẹ Xứ Sở. Danh tính này được bác sĩ Trần Văn Ký thừa nhận:: “Trên các bia ký lưu lại ở tháp, nếu ghi bằng chữ Phạn cổ thì tên của Bà là Bhagavati Kautharesvati, và ghi bằng chữ Chàm thì gọi đầy đủ là Yang Po Inư Nagar, theo đó thì “Yang” là Thần; “Pô” là tôn kính, là ngài; Inư là Mẫu, là mẹ; và Nagar: xứ sở, đất nước.” [Tháp Bà Nha Trang và Lược Sử Chiêm Thành], Khi người Việt chiếm đất Chiêm Thành, nữ thần này được thừa nhận tương tự như Chúa Nguyễn Hoàng thừa nhận Bà Thiên Mụ ở Huế vậy. Từ đó Nữ thần có thêm tên là Y A Na (trại từ (Po Nagar) và theo tập quán thời Nguyễn vua sắc phong thêm chữ Thiên nên gọi là Thiên Y A Na.

Bà Đen – Thiên Y A Na Ngọc Diễn Phi
(Tượng thờ ở Tháp Bà Po Nagar – Nha Trang)
Thần tích của Nữ thần theo thời gian được Việt hóa, đến năm 1856 Phan Thanh Giản cho khắc một bia đá được dựng ở tháp, toàn văn bài bia Tháp cổ Thiên Y đã được chép lại vào sách Đại Nam Nhất Thống Chí, đại ý bài văn như sau: “Xưa trong vùng Đại Điền có hai vợ chồng già trồng dưa hấu sinh sống. Khi dưa chín thì về đêm cứ bị phá trộm. Ông lão rình và thấy một cô gái mới lớn dùng dưa để đùa giỡn dưới trăng. Ông lão vặn hỏi thì biết là trẻ mồ côi bèn đem về làm con nuôi, và hai vợ chồng rất thương yêu cô gái. Một ngày mưa lụt lớn, nhớ chốn cũ ở Tam thần Sơn, cô nhập vào một khúc gổ kỳ nam đang trôi về phương bắc. Dân phương bắc thấy gỗ thơm trôi giạt đua nhau gắng sức kéo về nhưng không nổi. Thái tử đang ở tuổi 20, con của vua cai trị nghe tin liền tìm đến bãi biển và lạ thay một mình khuân được gỗ về cung. Từ đấy thường vỗ về cây kỳ nam và bồi hồi ngẩn ngơ. Bỗng một đêm thấy có bóng một cô gái diễm kiều hiện ra, thái tử vội nắm tay giữ lại gặn hỏi và biết được sự tích. Thái tử tâu rõ mọi chuyện với vua cha và được vua cho kết hôn. Hai vợ chồng sinh được hai đứa con, trai tên là Trí và gái là Quý. Một thời gian sau lại nhớ chốn cũ ở phương nam, vợ thái tử dắt hai con nhập vào gỗ kỳ nam trôi về cửa Cù Huân, rồi lần về núi Đại Điền nhưng ông bà lão trồng dưa đã qua đời. Bà liền lập đền thờ. Từ đó bà dạy dân trong vùng biết cách trồng lúa. Về sau Bà còn cho đục đá ở núi Cù Lao tạc tượng bà, rồi giữa ban ngày bà thăng thiên biến mất. Thái tử mãi sau cho người kéo thuyền đi tìm vợ, nhưng bọn người này khi đến cửa Cù Huân lại hiếp đáp dân lành và khinh miệt linh tượng, nên chợt có một trận cuồng phong nổi lên đánh úp thuyền biến thành một tảng đá to. Từ đó dân làng thấy Bà hiển linh thường cỡi voi trắng đi dạo trên đỉnh núi với tiếng sấm vang động. Có khi bà cỡi tấm lụa bay giữa không trung hay cỡi cá sấu trong vùng dảo Yến, núi Cù. Dân trong vùng bèn xây tháp thờ trên núi Cù Lao, cầu khấn việc gì cũng linh ứng. Tháp giữa thờ Chúa Tiên (tức Thần Thiên Y), tháp bên trái thờ vợ chồng lão trồng dưa, bên phải thờ thái tử. Phía sau lập đền nhỏ thờ hai người con. Người Chàm tôn Bà là Ana Diễn Bà Chúa Ngọc Thánh Phi. Triều Nguyễn phong tặng Hồng Nhân Phổ Tế Linh Ứng Thượng Đằng Thần và cử ba người dân làng Cù Lao làm Từ phu.” Triều đình dựa vào đó sắc phong cho Nữ thần với mỹ danh Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Thượng đẳng thần và gia phong Hồng nhơn phổ tế linh ứng Thượng đẳng thần
Linga (ở Tháp Bà)
Thần vật của Tháp Bà giáo
Tập San Bạn Huế Cổ (Bulletin des Amis du Vieux Hué) cũng dịch lại điển tích trên và nói thêm trước các ngọn tháp có một bia ghi chữ tượng hình chính người bản địa vẫn không hiểu viết gì (Bài Histoire de la Déesse Thien-Y-A-Na par Đào Thái Hành). Và cũng trong Tập san này, Sallet (avril-juin 1923) có chú thêm ở Đa Hòa, Điện Bàn, Bà còn có danh hiệu “Chúa Ngọc Ngạn Thượng Sơn Thần”, có hai người con trai là Cậu Quý và Cậu Tài. (dẫn từ Le Culte des Pierres của A. Cadière). Nhưng dân gian ở miền Trung lại hay gọi Bà Đen, tên gọi này dễ có sự nhầm lẫn với một Bà Đen khác ở miền Nam. Bà Đen ở miền Nam được thờ ở núi mang cùng tên thuộc tỉnh Tây Ninh được triều Nguyễn sắc phong là Linh Sơn Thánh Mẫu.
Tuy cùng tên gọi nhưng là hai nữ thần khác nhau. Bà Đen ở Tây Ninh, do Lê Văn Duyệt trình tấu xin triều đình sắc phong, có thần tích đại khái như sau: “Xưa trên núi Bà Đen, lúc ấy còn gọi là núi Một vì quanh vùng trơ trọi hòn núi này, có một tượng Phật rất to. Người người thường lên viếng Phật, trong đó có một tiểu thư tên là Lý Thị Thiên Hương, tuy là phận gái nhưng văn hay võ giỏi. Thiên Hương có nhan sắc và trong làng có chàng trai tên Lê Sĩ Triết đem lòng yêu thương. Vì có sắc đẹp, Thiên Hương cũng phải lòng một viên quan, người này dùng gian kế và quyền lực ép duyên may nhờ Lê Sĩ Triết ra tay cứu thoát. Cha mẹ cô cảm nghĩa đồng ý gả cô cho chàng trai nghĩa dũng này. Sau đât nước loạn lạc, chàng trai đi tòng quân. Lúc chồng vắng nhà, một hôm có bọn cướp vây bắt khi đang lễ Phật trên núi, cô chống cự và trốn vào rừng mất tích. Đến đời Minh Mạng, một hòa thượng trụ trì trên núi ứng mộng thấy một người con gái xinh đep, da ngăm đen, xưng tên Lý Thị Thiên Hương bị cướp rượt té xuống vực chết,đã về báo mộng chỉ chỗ cho hòa thượng tìm đến. Thấy có sự hiển linh như thế nên dân gian lập miếu thờ cúng.” Ở đây nói thêm hơi dài dòng nhằm phân biệt cho cụ thể cách gọi hai miền.
háp Bà Po Nagar
Theo nguồn Wikipedia tiếng Việt: “Tháp Bà là ngôi đền nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ cao khoảng 50 mét so với mực nước biển, ở cửa sông Cái (sông Nha Trang) tại Nha Trang, cách trung tâm thành phố khoảng 2 km về phía bắc, nay thuộc phường Vĩnh Phước. ” và tháp không phải đời sau xây lên để thờ Bà mà chính Nữ vương đã cho dựng lên thờ nữ thần Bhagavati. Tư liệu này cho biết thêm lúc đầu ngôi tháp bằng gỗ nhưng trong thờ “tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng”. Tượng nữ thần này bị quân Nam Đảo (tức Indonesia) cướp đi sau khi tàn phá ngôi tháp vào năm 774. Sau đó được Satyavarman cho dựng lại bằng gạch, năm 784 thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay. Đến đời vua Harivarman I và con trai ông là Vikrantavarman III lượt xây dựng thêm 5 tháp nữa (tức 6 tháp).
Cứ liệu này cho thấy thời Nữ vương xây dựng bằng gỗ là chính xác, còn tượng bằng vàng cần xem xét lại. Theo cuốn Lịch Sử Champa được tổng hợp từ nguồn Wikipedia viết “Indravarman III. Vào năm 918, Indravarman III cho đúc tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng dựng tại Tháp Bà, bức tượng này bị quân Chân Lạp cướp vào khoảng năm 945 – 946. Năm 965, Jaya Indravarman I cho dựng lại tượng nữ thần Bhagavati bằng đá ở Kauthara.” (thời kỳ này tương đương nhà Đinh ở Việt Nam).
Như thế việc thờ cúng của tháp chia làm hai thời kỳ: một thời kỳ thờ nữ thần Bhagavatitrong thần thoại Ấn Độ và thời kỳ sau thờ Nữ vương Po Nagar vì được coi là hóa thân của nữ thần Bhagavati. Trong bài The My Son and Po Nagar Nha Trang Santiarues, dựa vào các bản sao văn bia trong đền dang lưu giữa ở Trường Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) Trần Kỳ Phương đồng ý quan điểm này: “Qua các văn bia, chúng ta thấy tượng nữ thần Bhagavati được vua Satyavarman dựng lên tại đền năm 784 sau khi vua chiến thắng quân Nam Đảo năm 774. Tượng nữ thần bằng vàng được đặt tại đây từ năm 817 đến năm 918. Năm 950 tượng vàng đó bị quân Khờ-me cướp và đến năm 965 vua Haya Indravarman làm lại bằng sa thạch”.Cứ liệu dựa trên văn bia này đáng tin cậy, như vậy không phải quân Nam Đảo (Java) mà là quân Khờ-me lấy pho tượng vàng này. Một tài liệu khác dựa vào bia ký cũng xác nhận do quân Khờ-me cướp tượng vàng chứ không phải người Nam Đảo: Le Royaume de Champa, của Georges Maspero, 1928: Cuốn sách này có viết: “D8ến năm 945 hay 946 quân của vua Cam-bốt Rajendravarman xâm lược Champa và chiếm đền Po Nagar.”[Trang 118]. Sau đó Trần Kỳ Phương nói thêm: “Năm 1050, vua Sri Paramesvarvarman tôn xưng nữ vương thành thần với danh hiệu Yapu-Nagara/Yang Pu Nagar” Người được tôn xưng và thờ trong tháp chính là nữ vương Po Nagar, trước khi lên ngôi là công chúa Ramavali. [Trang 12]
Theo một nguồn tư liệu khác cho biết thời xây dựng tháp Po Nagar thì Chiêm Thành chia làm 2 nước, đúng hơn là 2 bộ lạc: Bộ lạc Dừa ở phía Bắc và bộ lạc Cau ở phía Nam. Tháp nằm trong lãnh thổ của vương quốc Cau, bị phá hủy nhiều lần bởi người đảo Java (tài liệu trên gọi là Nam Đảo) vào năm 774 và người Khờ-me vào năm 930. Tư liệu này còn cho biết xưa kia có tất cả 10 ngọn tháp mà nay chỉ còn lưu lại có 4 [httpwww.asiedesheritages.comsitechampachampa.htm]. Kiến trúc chính của cụm tháp này có tên gọi là Mandapa, có nghĩa là Phòng cầu nguyện có những cột đá đồ sộ, mà nay vẫn còn và đã được trùng tu lại, Phần kiến trúc này rất quy mô có thể nhận thấy ngay khi đi vào khu di tích. Dữ liệu này hoàn toàn phù hợp với lập luận vừa bàn. Đồng Dương xây dựng ở Quảng Nam tức phía Bắc Nha Trang, thuộc bộ lạc Dừa. Như vậy trước thế kỷ thứ 8 Chiêm Thành có 2 tiếu quốc, phía Bắc chịu ảnh hưởng của Phật giáo và phía Nam là Ấn giáo (cụ thể Thấp-bà giáo). Xứ Cau miền Nam hay bị thủy quân vùng Nam Đảo và quân Khờ-me quấy nhiễu, phía Bắc tiểu quốc Dừa bị Đại Việt đe dọa thôn tính.
Hiện nay, tháp chính thờ Nữ thần Po Nagar nằm ở phía bắc khu di tích, niên đại thế kỷ 12, cao 22,5 m, đỉnh tháp có chạm phù điêu thần Shiva cưỡi bò thần Nandin. Ngoài ra trong tháp còn có nhiều tượng thần khác, chung quanh có tượng các linh thú theo thần thoại Ấn Độ và dĩ nhiên không thể thiếu linga (biểu tượng của thần Shiva, vị thần chính của Chiêm Thành). Dưới đây là một số hình ảnh.











Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.