Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

Nhà thơ Phạm Tiến Duật



Nhà thơ Phạm Tiến Duật: Lang bang trong cõi mộng du
 (GD&TĐ) - Nói đến thơ ca thời kỳ chống Mỹ cứu nước, không thể không nhắc đến là nhà thơ Phạm Tiến Duật. Ông như thể được sinh ra để làm thơ về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta và để trở thành một trong những đỉnh cao của thơ ca thời kỳ này.
Viễn du ra mặt trận
Vào thời điểm ấy, nhu cầu được cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sôi sục trong huyết quản thế hệ trẻ chúng tôi. Phạm Tiến Duật không phải là trường hợp ngoại lệ. Thế nhưng, còn có một lối đi khác, lối đi vào thi ca thì không phải ai cũng có cơ may như anh. Ông tham gia chiến đấu với tư cách một phóng viên mặt trận nhưng gian khổ như một người lính chiến thực thụ. Ông là người chứng kiến sự ác liệt, hy sinh, nỗi đau thể xác và tinh thần của những người lính trong những năm tháng chiến tranh gian khổ và ác liệt, hơn là một sự trải nghiệm đau đáu về những vết thương ấy. Điều đó đã được phản ánh khá rõ trong thơ ông. Những bài thơ để lại dấu ấn trong lòng công chúng yêu thích thơ ca thời chống Mỹ như: “Lửa đèn”, “Tiểu đội xe không kính”, “Gửi em cô thanh niên xung phong”, “Trường Sơn đông, Trường Sơn Tây”… Những bài thơ này đã đưa ông lên vị trí hàng đầu của thơ ca Việt Nam thời kỳ chống Mỹ với Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật, đợt IV, năm 2012.
Sau này, khi chiến tranh ngày càng lùi sâu vào quá vãng, không ít người đã  ghi nhận sự lãng mạn, có khi như “lên đồng”, như kẻ “mộng du” trong thơ Phạm Tiến Duật. Còn ông lại nghĩ khác, đời mình là một cuộc phiêu bạt cùng số kiếp. Thuở nhỏ, dường như việc đi bộ hàng chục cây số để đến trường đã nuôi trong ông mầm mống của một kẻ phiêu bạt đó đây. Lên cấp ba thì đi trọ học ở xa nhà, sau đấy xuống Hà Nội học Đại học Sư phạm. Trước khi vào chiến trường, ông thường đi chiếc xe đạp sơn màu xanh lá cây, trên khung xe ghi hai chữ “chống Mỹ” và cùng với chiếc ba lô con cóc. Một ngày đẹp trời ông quẳng chiếc xe đạp lên thùng xe tải, rong ruổi theo những đoàn xe vận tải chở hàng hóa, súng đạn vào chiến trường.
Sự lãng mạn bất cẩn
Từ đó, con đường ra trận trong mắt anh sinh viên vừa mới tốt nghiệp trở thành đường ra trận “mùa này đẹp lắm”, một cái đẹp đầy chất lãng mạn cách mạng và chỉ có những người như Phạm Tiến Duật mới có được mà thôi. Ngay chính ông cũng không dễ gì lý giải một cách thấu đáo được tại sao mình lại làm như vậy, nhưng chỉ biết lúc ấy cứ thế mà đi, mà làm thơ, mà trở thành thi sĩ.
Sau này, ông bộc bạch:  “Tất cả giấy tờ, của tôi để lại ở Cục Vận tải, tôi cứ thế phiêu bạt dần vào mặt trận. Tôi không hề biết lái xe ô-tô, tôi chỉ cùng với những người lính vận tải, bám theo xe nọ, nối gót theo xe kia. Không có ai cử đi công tác mà tôi tự đi, tôi theo những người lính vào mặt trận. Đến khi vào sâu chiến trường, tôi gửi xe đạp ở nhà dân trong làng rồi cứ thế đi tiếp,… 
Chính cái cách ra trận có vẻ như “bất cẩn” của những người như ông cùng những gì mà các ông tận mắt chứng kiến từ cuộc chiến tranh khốc liệt đã giúp nhiều văn nghệ sĩ cùng thế hệ có được những tác phẩm hay vào bậc nhất nhì của một phong trào thi ca lúc bấy giờ. Theo ông, vào lúc đó, việc sáng tác thơ người ta không còn câu nệ vào vần điệu và cú pháp cổ điển nữa mà lấy vần điệu của cuộc sống chiến đấu trên chiến trường làm gốc cho chữ nghĩa.
Phạm Tiến Duật vừa là người ở trong cuộc, vừa là người ở ngoài cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phần ở trong, đã cho ông những dữ liệu của đời sống thực nơi chiến trường. Phần ở ngoài cho ông cái bồng bềnh, mơ mộng và lãng mạng của một thi sĩ trí thức, ít nhiều pha chút chất “lạc quan tếu”. Cả hai đã tạo cho ông có những giây phút thăng hoa trong các bài thơ mà ông đã viết trong những năm tháng đó. Những người như ông thường đau cùng nỗi đau thực của người lính nhưng lãng mạn hơn cái lãng mạn thực của người lính giữa nơi đạn bom và máu lửa ấy.
Mệnh lệnh trái tim
Có thể do tố chất và năng khiếu bẩm sinh của một thi sĩ trong ông, Phạm Tiến Duật đã chọn khía cạnh lãng mạn của người lính chiến, hay đúng hơn là cuộc đời đã hướng ông đến với sự lãng mạn nhiều hơn là nỗi đau của cuộc chiến: “Không có kính không phải vì xe không có kính/ Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi/ Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng/.../ Không có kính, ừ thì có bụi/ Bụi phun tóc trắng như người già/ Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm, cười ha ha…”
Sự lạc quan đến duy ý chí của Phạm Tiến Duật khiến những ai không bước ra từ cuộc chiến đó thấy rất khó để hình dung và chấp nhận được. Nhưng ở vào thời điểm đó, Phạm Tiến Duật đã thực sự có lý hay nói đúng hơn cuộc chiến tranh thần kỳ của dân tộc đã cho ông một cái lý, cái quyền quên đi những gian nan, vất vả, thiếu thốn trăm bề, thậm chí cả sự hy sinh xương máu. Bởi lẽ trong chiến tranh mọi cái đều có thể xảy ra nên mọi người cần phải lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng ngày mai. Đó dường như là mệnh lệnh trái tim của những người lính, của những thi sĩ và cả dân tộc ta thời ấy.
Hoa Thanh

NHÀ THƠ TRƯỜNG SƠN PHẠM TIẾN DUẬT
Phạm Tiến Duật sinh ngày 14/1/1941, tại huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Cha anh là nhà giáo, dạy chữ Hántiếng Pháp, còn mẹ làm ruộng. Anh tốt nghiệp Khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Vào chiến trường, anh trở thành phóng viên báo Trường Sơn, Cục Chính trị Bộ Tư lệnh Trường Sơn.  Sống và chiến đấu chủ yếu trên tuyến đường Trường Sơn cũng là thời gian Phạm Tiến Duật sáng tác rất nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng. Anh đã sống cuộc sống của người lính Trường Sơn tại nhiều đơn vị, nhiều trọng điểm ác liệt của tuyến đường mang tên Bác. Thực tiễn cuộc sống đã “bước vào” thơ của anh một cách sống động, tự nhiên và đầy chất lính. Có thể nói: Trường Sơn đã tạo nên thơ Phạm Tiến Duật, và Phạm Tiến Duật cũng là người mang được nhiều nhất Trường Sơn vào thơ. Nói đến đề tài Trường Sơn đánh Mỹ, người ta không thể quên Phạm Tiến Duật và thơ Phạm Tiến Duật hay nhất cũng ở chặng đường Trường Sơn.  
Năm 1970, sau khi đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Chiến tranh kết thúc, anh chuyển ngành về công tác tại báo Văn nghệ, sau đó làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam, rồi làm Tổng Biên tập tạp chí Văn nghệ Đối ngoại, Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Anh cũng là người dẫn chương trình ấn tượng của chương trình dành cho người cao tuổi của kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam.
Phạm Tiến Duật được kết nạp Đảng tại Trường Sơn. Anh được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã ký lệnh tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật.
8 giờ 50 phút ngày 4 tháng 12 năm 2007, nhà thơ Trường Sơn Phạm Tiến Duật đã mất tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi.
           Phạm Tiến Duật đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ anh là một người lính Trường Sơn. Thơ của anh được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: Giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái "tinh nghịch" nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của Phạm Tiến Duật đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là ca khúc "Trường Sơn đông, Trường Sơn tây". Phạm Tiến Duật có giọng thơ không giống ai, và cũng khó ai bắt chước được, dù hồi đó đã thấy vài người mô phỏng. Khó vì giọng đùa đùa, tinh nghịch, tếu táo nhưng lại đụng vào những miền sâu thẳm của tình cảm con người. Giọng ấy là của một chất tâm hồn chứ không phải chỉ đơn thuần một kiểu cách chữ nghĩa. Điều đáng nói là giọng thơ ấy đã tỏ ra đắc địa trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể đó. Kháng chiến chống xâm lược Mỹ là cuộc chiến tranh ác liệt, nhất là ở Trường Sơn. Hy sinh lớn, gian khổ nhiều. Thơ cần phản ánh chân thật thực tiễn ấy, nhưng lại không được gây bi lụy, xót thương. Cuộc chiến đang cần sự phấn đấu của lòng người. Nhưng cũng không được lên gân, cao giọng hay cắt bớt nét dữ dằn của thực tế chiến tranh. Đây là một thử thách với tất cả các nhà thơ hồi ấy. Nhiều người không vượt được. Phạm Tiến Duật vượt được, trước hết nhờ vào cái giọng đó.
Phạm Tiến Duật được ca tụng là "con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại", "cây săng lẻ của rừng già”, "nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”
Tháng 5/2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho cố nhà thơ Trường Sơn Phạm Tiến Duật về cụm tác phẩm thơ về Trường Sơn của nhà thơ.
                                                Hồng Châu tổng hợp và giới thiệu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.