Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập hai, xuất bản
năm 2004, trang 55 có in một tác phẩm văn học của Trần Quốc Tuấn với nhan đề Hịch
tướng sĩ(1). Nhưng thử đặt câu hỏi: liệu Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn có
tác phẩm nào gọi là Hịch tướng sĩ không ? Có lẽ, ít ai nghĩ tới điều
ấy. Để trả lời câu hỏi đó, theo tôi cần giải quyết 3 vấn đề:
- Một là, quy luật đặt nhan đề tác phẩm văn học của người trung đại;
- Hai là, tìm về gốc văn bản;
- Ba là, xét tổ chức đơn vị hành chính thời Trần.
Bây giờ xin lần lượt trình bày từng vấn đề.
1. Quy luật đặt nhan đề tác phẩm văn học của người trung đại
Văn học trung đại được chia làm hai loại: Văn học chức năng (bao gồm
chức năng hành chính, chức năng lễ nghi) và văn học nghệ thuật. Bài mà soạn giả
Ngữ văn 8 gọi là Hịch tướng sĩ kia thuộc văn học chức năng hành chính.
Muốn biết tên tác phẩm văn học chức năng hành chính được đặt theo quy luật nào,
hãy xét nhan đề các tác phẩm cụ thể của văn học Việt Nam thời trung đại sẽ rõ. Chẳng
hạn, nhan đề các văn bản Thiên đô chiếu, Thất trảm sớ,
Quân trung từ mệnh tập, Dụ thiên hạ hào kiệt chiếu, Bình Ngô
đại cáo, Tạ ơn biểu, Hiệu định quan chế dụ… Từ tên những
tác phẩm cụ thể kể trên, ta nhận thấy nhan đề tác phẩm văn học chức năng hành
chính bao giờ cũng gồm 2 bộ phận: bộ phận đứng trước chỉ ra chủ đề của văn bản;
bộ phận đứng sau (những chữ gạch dưới) chỉ ra thể văn của chúng. Thể văn các
tác phẩm kể trên là: chiếu, sớ, tập, đại cáo, biểu, dụ, còn chủ đề của chúng là
thiên đô (dời đô), thất trảm (chém 7 tên), quân trung từ mệnh (các từ mệnh
trong quân đội), dụ thiên hạ hào kiệt (dụ hào kiệt trong thiên hạ), bình Ngô
(dẹp yên giặc Ngô), tạ ơn (tạ ơn vua), hiệu định quan chế (hiệu định chế độ
quan chức)… Quy luật này đã được Tiến sĩ khoa học B.L. Riptin nêu ra cách đây
hơn ba mươi năm: “Thể loại trong văn học trung cổ là một phạm trù chủ đạo được
thể hiện trong cách thường xuyên nêu bật nó lên ngay ở tên gọi tác phẩm… Phần
cuối của tên sách cũng báo trước (thể loại của chúng)”(2).
Với quy luật ấy, ta hãy xem tác phẩm của Trần Quốc Tuấn thuộc thể loại
nào.
Nếu tách Hịch tướng sĩ làm 2 bộ phận
và bộ phận đứng cuối cho biết thể loại tác phẩm thì, “tướng sĩ” sẽ là thể loại
tác phẩm của Trần Quốc Tuấn. Nhưng rõ ràng rằng, không có thể loại văn học nào
gọi là “tướng sĩ” cả! Hoặc giả, nhan đề này do người biên soạn dịch chăng? Càng
không phải! Nếu dịch, soạn giả sách giáo khoa bao giờ cũng mở ngoặc chua thêm
phiên âm tên chữ Hán của tác phẩm. Chẳng hạn: Ngắm trăng (Vọng nguyệt)
tr.37, Đi đường (Tẩu lộ) tr.39, Chiếu dời đô (Thiên đô chiếu)
tr.48…; còn, nếu soạn giả tự đặt thì bao giờ cũng được chỉ ra xuất xứ một cách
rõ ràng. Chẳng hạn bài Nước Đại Việt ta, soạn giả chỉ rõ: “trích Bình
Ngô đại cáo” (tr.66). Với cách viết tên tác phẩm của Trần Quốc Tuấn như
trong Ngữ văn 8, người đọc sẽ nghĩ rằng, nhan đề Hịch tướng sĩ
do chính Trần Quốc Tuấn tự đặt và đặt theo quy luật ngữ pháp tiếng Việt vì
người Việt vẫn nói Hịch tướng sĩ, Hịch kháng Nhật cứu nước…
Đặt nhan đề tác phẩm như sách Ngữ văn 8 không những đi ngược quy luật
chung của phạm trù văn học trung đại, mà người đọc cũng chẳng thể hiểu nổi tác
phẩm ấy được viết bằng chữ Hán hay chữ Việt mặc dù cuối văn bản có ghi rõ:
“theo bản dịch trong…”, tr.58.
2. Tìm về gốc
văn bản
Tác phẩm của Trần Quốc Tuấn được khắc in sớm
nhất trong Đại Việt sử kí toàn thư. Nguyên văn đoạn giới thiệu văn
bản đó như sau: “Quốc Tuấn thường soạn Binh gia diệu lí yếu lược thư,
dĩ thụ chư tì tướng, dụ chi dĩ hịch vân…”(3) nghĩa
là, Quốc Tuấn từng soạn sách Binh gia diệu lí yếu lược để truyền cho các
tì tướng và dụ họ bằng bài hịch rằng… Sách Binh gia diệu
lí yếu lược còn có tên nữa là Binh thư yếu lược. Điều này chính
Trần Quốc Tuấn khẳng định trong bài hịch văn dụ các tì tướng của mình. Đến năm
1825, khi đưa vào bộ Hoàng Việt văn tuyển, Bùi Huy Bích giới
thiệu: “Trần Hưng Đạo Đại vương Dụ chư tì tướng hịch văn”(4)
nghĩa là, bài Hịch văn dụ chư tì tướng của Trần Hưng Đạo Đại vương.
Thế thì, ngay từ đầu, nhan đề tác phẩm của Trần Quốc Tuấn đâu phải là Hịch
tướng sĩ?
Vậy cái tên Hịch tướng sĩ bắt đầu
xuất hiện từ đâu?
Trong các sách in bằng chữ Quốc ngữ, người
đầu tiên đề cập tới văn bản của Trần Quốc Tuấn là Trần Trọng Kim. Ông viết:
“Bấy giờ Hưng Đạo vương có soạn ra một quyển Binh thư yếu lược rồi
truyền hịch khuyên răn các tướng sĩ…”(5). Ông Trần đã
gọi bài hịch văn Dụ chư tì tướng là Hịch khuyên răn các tướng
sĩ. Dịch như vậy, ông Trần đã bỏ mất chữ “tì” (cấp dưới) trong cụm từ “tì
tướng”. Trần Quốc Tuấn chỉ “khuyên răn” (dụ) các tướng dưới quyền mình. Hơn 20
năm sau - năm 1943, Dương Quảng Hàm lại tiếp tục bớt đi chữ “dụ”. Ông viết: “Hịch
tướng sĩ văn (bài hịch truyền cho tướng sĩ) của Trần Quốc Tuấn”(6).
Rồi đến năm 1962, nhan đề tác phẩm chỉ còn vẻn vẹn 4 chữ Hịch tướng sĩ(7)
và nghiễm nhiên bước vào sách giáo khoa !
Tóm lại, tìm về gốc văn bản, ta cũng chẳng
thấy tác phẩm nào của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn mang nhãn hiệu chỏn lỏn 4
chữ Hịch tướng sĩ cả! Cái nhan đề ấy chỉ xuất hiện từ 1962
trở lại đây và do người ngày nay tự đặt ra và cái chính là, không phản ánh được
tâm nguyện của Trần Quốc Tuấn.
3. Tổ chức đơn vị hành chính thời Trần
Cơ cấu tổ chức đơn vị hành chính thời Trần sẽ
quyết định tới cơ cấu tổ chức quân đội và cơ cấu tổ chức quân đội sẽ giúp ta
nhận chân nhan đề tác phẩm của Trần Quốc Tuấn.
Nhà Trần hình thành cuối năm 1225 và tổ chức
đơn vị hành chính theo mô hình thái ấp. Ngô Sĩ Liên từng nhận xét: “Chế độ nhà
Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ ở hương(7) mình, khi chầu hầu thì
mới đến Kinh sư, xong việc lại về. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc
Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh, đều thế cả… Vả lại, như năm Đinh Tị đời Nguyên
Phong (1257), giặc Nguyên vào cướp, các vương hầu cũng đem người nhà và hương
binh thổ hào làm quân giúp vua; trong cuộc biến loạn đời Đại Định (1370) lại
đem người thôn trang đi đón vua, cũng là làm cho thế nước vững mạnh” (tr.34).
Với cách tổ chức hành chính như vậy, mỗi vương hầu đều có quân đội riêng và
quân đội của ai, người ấy chịu trách nhiệm nuôi dưỡng, huấn luyện, trang bị vũ
khí… Khi quốc gia hữu sự, các vương hầu có nghĩa vụ đem quân tới giúp triều
đình. Việc xong, quân lính lại trở về chịu sự cai quản của các vương hầu. Còn
chế độ điền trang, Ngô Sĩ Liên cho biết, bắt đầu có từ tháng 10 năm 1266
(tr.83).
Đọc Đại Việt sử kí toàn thư
ta thấy tác giả đề cập rất nhiều tới quân đội riêng của các vương hầu. Chẳng
hạn: tháng 10 năm 1282 vì còn bé, không được dự hội nghị bàn việc đánh giặc,
Trần Quốc Toản tức giận trở về “huy động gia nô và thân thuộc được hơn nghìn
người, làm binh khí, đóng chiến thuyền, đề 6 chữ Phá cường địch, báo hoàng
ân vào lá cờ” (tr.53-54). Cho dù tháng 10 năm 1283 Hưng Đạo vương Trần
Quốc Tuấn được tiến phong làm Quốc công tiết chế, “thống lĩnh thiên hạ chư quân
sự” (tr.54), nhưng thực chất quân đội vẫn nằm trong tay các vương hầu ở thái ấp
và điền trang. Chứng cứ là, tháng 8 năm sau - năm 1284, “Hưng Đạo vương đòi
điều động các quân của vương hầu để đại duyệt ở bến Đông” (tr. 55). Rồi đến,
ngày 26 tháng 12 năm đó, ông lại “vâng lệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân
Trà, Ba Điểm, chọn người mạnh khỏe làm quân tiền phong, vượt biển vào Nam…; các
quân nghe thế, không quân nào là không đến tụ họp… Hưng Vũ vương Nghiễn, Minh
Hiếu vương Uất, Hưng Nhượng vương Tảng, Hưng Trí vương Hiện đốc suất quân các
xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn, cộng 20 vạn quân đến họp ở
Vạn Kiếp, theo sự điều khiển của Hưng Đạo vương để chống quân Nguyên”
(tr.55-56). Tháng 6 năm 1286 nhà vua lại “sai các vương hầu tôn thất đều mộ
binh và thống lãnh quân thuộc hạ của mình” (tr.63) để chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ ba. Và chính Trần Quốc Tuấn trong tác phẩm
nói trên cũng khẳng định: “Chẳng những thái ấp của ta không còn…”. Chế độ thái
ấp, điền trang và quân đội nằm trong tay các vương hầu tồn tại cho đến khi nhà
Trần sụp đổ.
Nếu tự đặt nhan đề bài văn của Trần Quốc Tuấn
là Hịch tướng sĩ, vô tình ta đã phạm ít nhất 3 sai lầm:
- Thứ nhất, phủ định hiện thực lịch
sử chế độ thái ấp, điền trang tồn tại hơn 150 năm của nhà Trần (1225 - 1400).
Vào thời điểm ấy, nhờ chính sách lập thái ấp, điền trang với quân đội riêng của
từng vương hầu mà triều Trần vững mạnh và đủ sức 3 lần chặn đứng không cho quân
Mông Nguyên tràn xuống phía Nam và Đông Nam Á. Trần Quốc Tuấn tuy là Quốc công
tiết chế, thống lãnh chư quân, nhưng chỉ là để điều động quân của các vương hầu
chứ không huấn luyện quân thay cho họ.
- Thứ hai, phủ định sự khiêm tốn của
Hưng Đạo vương. Ông chỉ “hịch” các tì tướng và chỉ tì tướng dưới quyền, chứ đâu
dám “hịch” chư vị vương hầu ngang quyền với mình như Hưng Vũ vương Nghiễn, Minh
Hiếu vương Uất, Hưng Nhượng vương Tảng, Hưng Trí vương Hiện…
- Thứ ba, rời bỏ chủ đề tư tưởng và
nghệ thuật đặc sắc của bài văn bởi bỏ mất chữ “dụ”. Nhờ tinh thần thương yêu
các tướng lĩnh và binh lính dưới quyền như những người thân thiết ruột rà, như
con em trong nhà mà quân đội nhà Trần có được sức mạnh bất khả thắng. Mặc dù
viết hịch, nhưng “hịch” trên tinh thần “dụ”. Nếu đứng một mình, “dụ” có thể là
một thể văn, nhưng trong nhan đề Dụ chư tì tướng hịch văn thì nó làm
định ngữ cho “hịch văn”. Ở đây “dụ” hàm 2 nghĩa: khuyên răn, dạy dỗ, làm cho
hiểu rõ… và nghĩa thứ hai là, lấy những dẫn chứng, những ví dụ làm luận cứ. Vì
thế, không phải ngẫu nhiên mà trong văn bản này có lắm ví dụ làm vậy! Nào là,
Kỉ Tín cứu Cao đế, Do Vu bảo vệ Chiêu vương, Dự Nhượng báo thù cho chủ, Thân
Khoái cứu nạn cho nước, Kính Đức phò Thái Tông, Cảo Khanh mắng An Lộc Sơn… Rồi
Vương Công Kiên cùng tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập thời Tống, Cốt Đãi Ngột
Lang cùng tì tướng Xích Tu Tư thời Nguyên… Và điều quan trọng hơn là, giọng văn
trong bài hịch chứa chan tình cảm chân thành, thực bụng (Ta thường tới bữa quên
ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa…); mang tình thương yêu
ruột thịt (không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm ; quan nhỏ
thì…, lương ít thì…, đi thủy thì…, đi bộ thì…, lúc trận mạc xông pha thì…, lúc
ở nhà nhàn hạ thì…) và khuyên răn chí tình (Chẳng những thái ấp của ta mãi mãi
vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ, chẳng những gia quyến
của ta…, mà vợ con các ngươi…) đúng như câu kết của bài văn: “Ta viết ra bài
hịch này để các ngươi biết rõ(8) bụng ta”.
Tóm lại, từ quy luật đặt nhan đề tác phẩm văn
học thời trung đại, đến tìm về bản gốc và đối chiếu với cơ cấu tổ chức quân đội
thời Trần, ta có thể rút ra mấy nhận xét sau:
- Trần Quốc Tuấn không có tác phẩm nào gọi là
Hịch tướng sĩ cả.- Nhan đề Dụ chư tì tướng hịch văn vừa phù
hợp với tổ chức nhà nước thời Trần, phù hợp với quy luật văn học trung đại, phù
hợp với tư tưởng tình cảm và ý đồ sáng tác của Trần Quốc Tuấn, vừa giúp người
dạy, người học định hướng thể loại tác phẩm, định hướng giá trị nội dung cũng
như nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm.
Thế mới hay, hiểu cho ra nhẽ nhan đề một tác
phẩm văn học trung đại quả rất khó, đòi hỏi người soạn sách phải đầu tư nhiều
công sức để tránh những nhầm lẫn không đáng có.
NGUYỄN ĐĂNG NA
Chú thích:
(1) Ngữ văn 8 tập hai, Nxb. Giáo dục, 2004. Từ đây, khi trích
dẫn, chúng tôi chỉ ghi số trang.
(2) B.L. Rip-tin: Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học Trung cổ
phương Đông theo phương pháp loại hình, Tạp chí Văn học, số
2/1974, tr.114-115.
(3) Đại Việt sử kí
toàn thư, tập IV, Nxb. KHXH, H. 1993, tr.205, bản chữ Hán. Nguyên
văn như sau: 國峻嘗撰兵家妙理要略書以授諸裨将諭之以檄云.Từ đây viết tắt là Toàn thư.
Tác giả bài viết: NGUYỄN ĐĂNG NA
(Nguồn: http://caodanghaiduong.edu.vn/index.php)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.