Nhà thơ Y Phương tên thật là Hứa Vĩnh Sước. Ông sinh ngày 24 tháng 12
năm 1948 tại Trùng Khánh, Cao Bằng. Hiện ông đang công tác tại Hội Nhà
văn Việt Nam. Bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình khi còn là một chiến
sĩ bộ đội đặc công, sau khi chuyển ngành, ông từng theo học và tốt
nghiệp Trường Sân khấu Điện ảnh Việt Nam và Trường Viết văn Nguyễn Du.
Ông ghi dấu tên mình vào đời sống văn học Việt Nam từ bài thơ Tiếng hát
tháng Giêng – Giải A cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1984. Và
cũng từ ấy, cuộc đời ông gắn với thơ như duyên nghiệp và lẽ sống. Hơn
hai mươi năm qua, ông sáng tác và công bố 6 tập thơ: Tiếng hát tháng Giêng (1986); Lời chúc (1987); Đàn then (1996); Chín tháng (trường ca, 1998), Thơ Y Phương (2000); Thất tàng lồm (Ngược gió, song ngữ Tày-Việt, 2006). Ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Y Phương quan niệm: “Văn chương là
một việc làm trả ơn những người sinh thành và nuôi dưỡng mình”. Trên
thực tế, ông đã không chỉ làm được việc trả ơn cho cha mẹ, cho dân tộc
đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, mà bằng tài năng và quá trình lao động
nghệ thuật nghiêm túc, ông đã thực sự làm rạng danh cho thơ Tày, và góp
một giọng điệu lạ cho thơ Việt thế kỷ XX. Đặt thơ Y Phương trong dòng
chảy liên tục của thơ Tày thế kỷ XX, chúng tôi nhận ra: Nếu như thơ của
các thế hệ trước Y Phương như Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết
Toại, Triều Ân… trên cơ sở kế thừa sâu sắc truyền thống thi ca Tày đã
thực hiện sứ mệnh mang thơ Tày gia nhập nền thơ Việt Nam hiện đại, thì
trong khoảng hai mươi năm qua, thơ Y Phương đã đưa thơ Tày lên một tầm
cao mới, vừa chiếm lĩnh tư duy và thi pháp thơ hiện đại, vừa làm giàu
bản sắc dân tộc.
1. Cũng như thơ ca ở thời đại mà giá
trị của con người được đo bằng sự cống hiến của anh ta đối với cộng
đồng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thơ Y Phương thấm đẫm
tinh thần yêu quê hương, đất nước, yêu dân tộc mình. Nhưng sự khác biệt
so với các nhà thơ thế hệ trước thể hiện rõ ở cách mà ông thể hiện tinh
thần ấy. Nếu thơ Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Triều
Ân…trực tiếp lấy quê hương – đất nước làm đề tài chủ đạo, họ làm thơ để
hát lên những tiếng ca hào sảng về tình yêu quê hương đất nước, về những
đổi thay lớn lao của số phận dân tộc mình, từ kiếp đói nghèo, nô lệ
được làm chủ cuộc đời mình, thì thơ Y Phương trải rộng trên một hệ thống
đề tài: chiến tranh, cuộc sống và con người miền núi, đô thị, tình cảm
gia đình, tình yêu lứa đôi… Ở đề tài nào ông cũng thể hiện rất thành
công.
Sự phong phú về đề tài thể hiện sự trải nghiệm của cuộc đời ông, một cuộc đời bắt đầu từ mạch nguồn...cái
làng của mẹ sinh con/ Có ngôi nhà xây bằng đá hộc/ Có con đường trâu bò
đi vàng đen kìn kịt/ Có niềm vui lúa chín tràn trề/ Có tình yêu tan
tành tiếng thác (Tên làng), đi qua khói lửa chiến tranh và trưởng thành: Nhận khẩu súng, đeo ngôi sao/ Đi dép lốp đạp bao thằng xâm lược/ Ăn cơm muối vừng mà thắng giặc/ Lớn lên chân cứng đá mếm (Thưa mẹ chúng con đã lớn);
trải qua những thăng trầm của đất nước và thời cuộc, tìm về và khẳng
định mình trong quan hệ máu thịt với cội nguồn dân tộc, khẳng định bản
lĩnh, tài năng của một nhà thơ và niềm tin vào con người: Mặt trăng/ Mặt trời từ đâu mà có/ Mặt trời, mặt trăng ư?/ Từ chúng ta ngước lên mà thành (Trò chuyện với các thần).
Niềm tin vào sức mạnh của chính
mình, sức mạnh của Con Người không chỉ là niềm tin cá nhân của nhà thơ.
Niềm tin ấy phải chăng có nguồn gốc sâu xa từ văn hóa tín ngưỡng - tôn
giáo của dân tộc Tày? Trong lịch sử văn hoá của mình, người Tày đã tiếp
nhận nhiều giá trị văn hoá - văn minh trong khi giao lưu văn hoá với các
cộng đồng dân tộc khác, nhưng riêng về tôn giáo thì hầu như chưa có một
tôn giáo nào từ bên ngoài lại có thể tìm được chỗ đứng trong sinh hoạt
tâm linh của người Tày. Ở thời hiện đại, điều này vẫn có ý nghĩa của nó.
Người Tày tin vào sức mạnh của chính mình. Họ, chứ không phải thế lực
siêu nhiên nào khác, tự làm nên cuộc sống, làm nên xứ sở của mình, như Y
Phương kiêu hãnh: “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” (Nói với con).
Họ dựa vào các quy luật tồn tại và phát triển của vạn vật trong thiên
nhiên để cùng tồn tại và phát triển. Niềm tin và lòng tự tôn dân tộc
trải qua ngàn năm, tạo nên một tâm thức, một trạng thái sống vững vàng
và hài hòa của các thế hệ người Tày. Niềm tin lớn lao ấy nuôi dưỡng tâm
hồn và tài năng thơ của nhà thơ Y Phương, giúp ông nghiệm sinh những
chiều kích khác của cuộc sống.
Có thể thấy ở thơ Y Phương sự đổi mới
không ngừng trong ý thức điều hòa quan hệ giữa lý trí và tình cảm, giữa
cái riêng của cộng đồng xuất phát và cái chung của cộng đồng gia nhập.
Đó là sự tự nghiệm: Tôi có một dòng suối mơ/ Ra biển lớn vẫn chưa
bằng lòng/ Bạc đầu sóng không một ngày ngơi nghỉ/ Cả cuộc đời tự vặn
mình sinh nở/ Chảy mãi hoài vào người (Tôi có một dòng suối).
Đó là ý thức về cội nguồn, truyền thống dân tộc, như những con đường
núi, như tên làng, như câu hát tháng Giêng, như lời ru của bà,… không
bao giờ mất đi. Ông không chỉ ý thức được việc giữ gìn bản sắc dân tộc,
mà còn chủ động kiếm tìm và hòa nhập với sự biến đổi của cuộc sống theo
thời gian. Điều đó làm cho thơ Y Phương vượt lên trên các nhà thơ Tày
cùng thời và ngày càng chiếm lĩnh các giá trị mới.
2. Sự trải nghiệm cuộc sống, bản
lĩnh và niềm tin cùng với tài năng và ý thức nghề nghiệp của nhà thơ đã
làm nên trong thơ ông một giọng điệu đa thanh, vừa đằm thắm chất trữ
tình vừa hào hùng chất sử thi, vừa hồn nhiên chân chất vừa sâu lắng tâm
tư. Điều đó là sự khác biệt rõ nét đối với giọng điệu mạnh mẽ, hào sảng
mang đậm chất sử thi, vốn là giọng điệu chủ đạo thể hiện qua lối kể tả
chân thực của các nhà thơ thế hệ trước.
Khi viết về quê hương mình, dân tộc mình (trong các bài Lên Cao Bằng. Phòng tuyến Khau Liêu, Tên làng, Nói với con, Người sinh ra bài ca, Chín tháng…) ông sử dụng giọng điệu sử thi hào sảng và kiêu hãnh: Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương/ Còn quê hương thì làm nên phong tục (Nói với con); Thắp sáng lên ngọn đèn/ Lịch sử hiện dần lên mặt vải/ Dân tộc vừa bơi thuyền vừa hát trường ca Khảm hải (Chín tháng). Và lớn hơn thế, là tình yêu, niềm tự hào và ý chí giữ gìn đất nước, giữ gìn nền văn hóa làm nên đất nước: Ta quyết không lùi /Cả đất nước trong vòng tay ta giữ / Câu hát thiêng liêng lắm chứ / Hát bây giờ còn để hát mai sau (Tiếng hát tháng Giêng)
Nhưng cũng trong những bài thơ ấy lại
rung lên những bè trầm đằm thắm, thiết tha mà nhà thơ nhẩn nha và chân
thành gieo vào lòng người: Đất nước/ Chưa một ngày yên nghỉ/ Ngủ
cũng đi/ Mà ăn cũng đi/ Biển réo đằng kia/ Còn trời/ Còn đau khổ/ Đất
nước dài nước mắt người thiếu phụ (Chín tháng), Em có buồn?/ Sao em bâng khuâng/ Quê hương mãi nghèo thế… (Tiếng hát tháng Giêng), Mẹ và em nhỏ/ Đeo đầy nhớ thương/ Cong cả đường cái quan (Phòng tuyến Khau Liêu), Bài
hát ấy ở trong tôi/ Mỗi khi hát lại đầm đìa nước mắt/ Thương cho dân
tộc mình lao đao bốn mặt/ Những phương trời lửa vừa tắt, lại bùng lên (Người sinh ra bài ca)…Đó
là những vần thơ được viết từ trái tim nhiều rung cảm tình đời, từ sự
trải nghiệm và thấu hiểu của một người yêu nước yêu dân tộc, không chỉ
có niềm lạc quan chiến thắng mà còn hiểu cả sự bi tráng phía sau những
chiến thắng ấy. Đó là khó khăn gian khổ và sự hy sinh, mất mát, điều mà
các nhà thơ Tày trước ông ít khi đề cập tới.
Sự hòa nhịp giữa chất sử thi và chất
trữ tình làm nên giọng điệu trữ tình – sử thi, là giọng điệu chủ đạo của
thơ Y Phương trong khoảng mười năm đầu. Sau này, trong khoảng mười lăm
năm trở lại đây, thơ Y Phương thể hiện một giọng điệu mới, giọng điệu
trữ tình – thế sự. Trong thơ đằm thắm niềm vui, khi nhà thơ nhận ra
những nét đẹp làm nên giá trị của cuộc sống quanh mình: Mồng một
Tết thắp hương/ Khói đi lang thang/ Theo khói/ Gặp bưởi vàng/ Dọc đường
làng/ Chọc là cười/ Bầy trẻ nhỏ vừa mổ vừa ăn vừa đem ra nghịch/ Chân
tay thơm quê hương/ Chúng nó nói giọng ông bà ngoại (Lời ru quê ngoại), Bất chợt ùa ra đường/ Từng đôi trăng đi/ Từng đôi trắng đi/ Cười lóa/ Sung sướng về đâu em (Một chút Lạng Sơn), Sớm
nay/ giàn mướp rung rinh đài hoa/ Con ếch cốm ngắm vịt bơi rinh rích/
Cơn gió nồm chảy qua người xanh mướt/ Thung lũng như em/ Chìm lặng yêu
thương(Chim trắng)…
Nhưng thơ Y Phương cũng chất chứa
những suy tư, lo lắng về nhân tình thế thái, về những nỗi buồn, những
hoài niệm mang sắc thái, cung bậc khác nhau, mà sự tinh tế đã giúp nhà
thơ nhận ra. Đó là sự tù túng của vùng đất hay của thời cuộc, khiến nhà
thơ hoang mang: Những mùa dài sông Bằng không chảy/ Tôm cá đi thơ thẩn như người/ Mái chèo chạm nỗi lòng gợn sóng/ Đi đâu?/ Về đâu?/ Bè ơi!(Những mùa sông Bằng không chảy). Đó là nỗi lòng của một người mẹ: Con thương mẹ bằng mưa/ Mưa một ngày đã nhạt/ mưa cả tháng thì sao (Lời mẹ)…Là
nỗi lo lắng cho quê hương không thể nói hết lời trong câu thơ buông
lửng vừa hàm chứa những nỗi niềm, vừa độc đáo về cách diễn đạt, và “bắt”
người đọc phải tự hoàn tất cái khoảng trống thẩm mỹ ấy: Đời ông còn đun củi/ Đời cha đã chặt cành/ Đến đời con đun…cỏ/ Đất mỗi ngày mỗi khó/ Người mỗi ngày mỗi…(Người mỗi ngày).
Còn đây là sự cô độc của một người
miền núi ở nơi thị thành, một cá nhân bé nhỏ, xa lạ giữa dòng chảy khổng
lồ của thế giới hiện đại. Là nỗi đau đớn đến xót xa, giống như nỗi đau
của một cái cây đã bứt khỏi cội rễ: Đây đâu phải nhà mình / Không thấy cánh đồng lúa vàng / Bãi đá sau làng/ ... /
Mở cửa ra/ Nhà chồng lên nhà/ Nhà cũng guồng chân chạy/Những dòng sông
người sôi lên ầm ào / Cháy khét/ Inh tai nhức óc/....Đóng cửa vào /
Tiếng máy lạnh thở dài/ Màn hình chớp như khóc/ Gối/ Chăn/ Ga/ Đệm/ Nói
tiếng gì/ Không biết/ Cây trong bồn/Hoa trong bình / Tranh trên tường/
Cười nỗi gì/Không biết. (Cười nỗi gì)
Sự đa giọng điệu trong thơ Y Phương mà
giọng điệu nào cũng thành công là nét khác biệt và nổi bật không chỉ so
với các tác giả thơ Tày lớp trước mà ngay cả với lớp tác giả cùng thời
và sau ông cũng chưa ai có được.
3. Thơ Y Phương là kết quả của một
quá trình tự ý thức trong tiếp nhận và sáng tạo để đạt tới sự hài hòa
giữa dân tộc và hiện đại.
Y Phương chủ động làm cho hai thi
pháp cổ điển và tự do hoà quyện với nhau. Ông kết hợp hài hòa giữa lối
trần thuật, phô diễn gần với diễn xướng dân gian và lối viết cô đọng,
súc tích, nói ít gợi nhiều của thơ hiện đại. Các tác phẩm Chín tháng, Tiếng vó ngựa trên đèo Heo, Người vùng cao…về sau này là Lời ru quê ngoại, Người mỗi ngày…,Mưa, Keng Pảng…
thể hiện rõ điều này. Trong thơ Y Phương, ta thường bắt gặp những hình
ảnh, ngôn từ, cách diễn đạt mang đậm chất Tày, đó là sử dụng cú pháp
theo mạch liên kết thẳng, ít khi phá vỡ cấu trúc thông thường, thông tin
thẩm mỹ đến trực tiếp; xây dựng những hình tượng thơ giàu tính biểu
cảm, lối so sánh ví von, lối diễn đạt mang phong vị dân gian: Núi
như trăm voi rùng rình/ Suối như bạc ào ào chảy…/ Mé già ơi nhớ mẹ râm
ran khắp người/ Như chàm đã kín nương/ Như lúa trĩu đồi/ Mé yêu con
bằng trời/ Nhưng không giữ/ Mé thả con mình theo nước về xuôi (Người vùng cao); Bất ngờ/ Em đổ vào tôi/ Củi mục cành khô lại xanh chồi/ Hòn đá vỡ mọc lên cây nghiến (Yêu muộn)…
Nhưng nếu như các nhà thơ trước ông
dừng lại ở đấy, thì Y Phương đi tiếp. Ông luôn tìm tòi và thành công
trong việc phá vỡ cấu trúc ngôn ngữ thông thường để cấu tạo lại (tái cấu
trúc), tạo ra giá trị biểu đạt cao. Ông rất giỏi trong việc lập tứ, bài
thơ nào của ông cũng có tứ mới. Đồng thời, ông hay tạo ra những phá
cách về ngữ nghĩa, tạo ra những hình ảnh thơ lạ, có sức gợi rất cao:
Khi lửa tắt/ Nó thoát vào không khí/ Khi mặt trời lặn/ Nó thoát vào không khí Khi mặt trăng lặn/ Nó thoát vào da thịt em (Da thịt em); Bàn tay mềm ra suối mọc thành cây/ Cầm ngọn khói dựng lên trời thẳng tắp (Em - cơn mưa rào – ngọn lửa); Cháu tỉnh rồi/ Đôi mắt đen như chữ Hán/Hau háu nhìn (Lời chúc).
Ông luôn cố gắng “lạ hóa” ngôn ngữ thơ, sáng tạo ra những từ láy mới nhằm tạo ấn tượng thẩm mỹ cao hơn: Cỏ lấp lánh/ Khe khẽ ướt (Ánh trăng), Lúc bấy giờ/ tốc tác hạt mưa/… Quả gì túng tínhđấy mình ơi/…Quả gì nhúm nhímđấy mình ơi/… Mẹ nhằm nhìnói… (Chín tháng), Cháu bé vừa đầy tháng/ Non nỏnnhư vành trăng (Lời chúc),…
Nhìn lại sự thành công của Y Phương
mà đỉnh cao là Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, xin tạm cắt
nghĩa, có lẽ đó là sự kết tinh và toả sáng của một bản năng thơ thiên
phú, một quá trình lao động nghệ thuật mà ở đó thơ như một lẽ sống, và
vốn văn hoá sâu rộng khởi nguồn từ văn hoá Tày đặc sắc. Xã hội càng hiện
đại, nhà thơ dân tộc thiểu số càng làm cho mình giàu có lên bằng tri
thức và bản sắc văn hoá dân tộc, thì càng vững vàng hội nhập mà không
đánh mất mình. Điều đó lý giải vì sao ngay cả ở những năm đầu của thế kỷ
XXI này, trong khi các nhà thơ Tày cùng thế hệ với ông hầu như vẫn giữ
lối nghĩ, lối viết như cách đây vài mươi năm, khó thay đổi, còn lớp trẻ
hòa nhập nhanh với đời sống đương đại nhưng lại có phần nhạt nhòa bản
sắc dân tộc, thì Y Phương vẫn vững vàng trên cả hai phương diện: dân tộc
và hiện đại. Những thành quả sáng tạo của ông đã làm cho thơ Tày bay
cao hơn trên bầu trời thi ca Việt Nam.
NGUYỄN THUÝ QUỲNH
(Nguồn: http://www.nhavantphcm.com.vn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.