Trải bao năm
tháng,từ đời này truyền qua đời khác, cứ mỗi khi đông tàn, tiết xuân lại đến
thì toàn thể dân tộc Việt và cả một số dân tộc khác ở phương Đông Châu Á lại
rộn rịp chuẩn bị Tết. Một trong những phong tục cổ xưa nhất của người Việt làm
trong những ngày Lễ Tết nguyên đán chính là trồng cây nêu.
Dù là người thành thị hay nông
thôn, mỗi khi nghe câu ca dao đều thấy lòng mình xốn xang rộn rã. Hình ảnh cây
nêu được dựng trước cửa ngôi nhà mái tranh luôn gợi cho ta cảnh đón xuân ấm
cúng và gia đình xum họp.Ngày nay, người Việt Nam đã bỏ thói quen dựng nêu ngày
Tết. Nhưng xưa kia, mỗi lần năm mới đến là phải cắm nêu: Cao nêu, kêu pháo,
bánh chưng xanh là những biểu tượng đón xuân không thể thiếu được. Nhưng nêu là
thế nào? Vì sao phải dựng nêu? Câu chuyện thực ra cũng không đơn giản.
Cây nêu đã cùng với tổ tiên
người Việt theo cha ông trong lịch sử dựng nước; giữ nước và mở nước đầy bi
tráng.
Ngày xưa, có một cuộc chiến
tranh giữa người và ma quỉ. Loài người được Đức Phật từ bi giúp đỡ. Ma quỉ thua
trận; đồng ý nhựơng lại đất cho loài người trong khoảng không gian mà chiếc
bóng áo cà sa của Đức Phật phủ trên cây nêu. Chúng chỉ nghĩ rằng: Với chiếc áo
cà sa bé tý phủ trên cây nếu; thì bóng của nó trên mặt đất không thể lớn hơn
cái miếu cô hồn. Nhưng bằng pháp thuật; Đức Phật đã làm cho cây nêu vươn lên;
cao vút đến tận trời xanh và bóng chiếc áo cà sa lớn đến mức phủ kín mặt đất.
Giống quỉ thua cuộc phải ra biển Đông ở. Nhưng Dức Phật từ bi cho phép chúng
được trở về đất liền trong những ngày Tết. Để quỉ không xâm phạm vào đất đai có
chủ là người ở; Ngài bảo vào những ngày Tết; mỗi nhà đều trồng trước cửa một
cây nêu làm dấu để lũ quỉ ma biết mà tránh xa.
Từ đấy; trải hàng ngàn năm qua –
mỗi năm khi Tết đến; mỗi gia đình người Việt và một số dân tộc trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam;
lại trồng một cây nêu cho đến tận bây giờ. Hình ảnh cây nêu cũng như chiếc bánh
chưng; bánh dầy đã cùng lịch sử văn hoá thăng trầm trải hàng thiên niên kỷ và
đi vào hồn người dân nước Việt. Truyền thuyết về cây nêu mang dấu ấn của Phật
giáo; nhưng chúng ta có thể nhận thấy: không hề có một nền văn hoá ảnh hưởng
Phật giáo nào của các dân tộc khác trên thế giới có cây nêu; ngoài Việt Nam.
Bởi vậy; có thể khẳng định rằng: Cây nêu là di sản văn hoá phi vật thể đặc thù
của riêng văn hoá Việt và có cội nguồn thuần Việt. Từ đó; có thể nói rằng: Hình
ảnh Đức Phật chỉ là sự chuyển hoá của một vị thánh nhân Lạc Việt; sau hàng ngàn
năm thăng trầm của lịch sử. Nhưng cũng có thể nói rằng: Chính hình ảnh chiếc áo
cà sa của Đức Phật từ bi phủ lên cây nêu; cũng là một hình tượng rất độc đáo
thể hiện sự che chở; bảo vệ nền văn hoá Việt của Phật pháp khi lịch sử Việt ở
lúc thăng trầm bi tráng.
Cùng với hình tượng “Hạc và
Rùa”; tục ăn trầu; bánh chưng bánh dầy…Sự phổ biến của tục trồng nêu trong văn
hoá Việt đã chứng tỏ đây là một biểu tượng được lựa chọn có ý thức cho một giá
trị minh triết độc đáo của nó.
Về hình tượng cây nêu – mà người
viết biết được – thì có ba hình tượng còn đến bây giờ. Cả ba hình tượng này đều
dùng một thân cây tre trồng thẳng trên mặt đất; sự khác nhau của hình tượng là
phần phía trên cây nêu. Đó là:
Một loại cổ xưa nhất ; phía trên
ngọn tre là một vòng tròn cũng làm bằng tre; nhỏ bằng cái nia; với 2; 3 hoăc 4
thanh tre buộc ngang qua tâm tạo thành hình 4; 6 hoặc 8 điểm trên vòng tròn. Ở
những điểm này; người ta treo nhiều hình tượng; đôi đũa; giải bùa tua; giỏ tre
…
Còn một hình tượng nữa là phía
trên ngọn tre treo một hình vuông hoặc chữ nhật. Hình chữ nhật này được làm
bằng bốn thanh tre sổ xuống và năm thanh tre ngang. Bốn thanh tre buông thẳng
xuống tượng cho tứ tung; năm thanh ngang tượng cho Ngũ hoành. Đây cũng là một
loại bùa trừ tà trong Đạo giáo biến thể về sau này.
Trên hình chữ nhật; người ta cũng treo một đôi đũa trời tượng cho Âm Dương; một giỏ tre trong đó có một túi gạo muối được gói trong vài hoặc giấy điều; là hai vật thiết yếu cho đời sống con người và cũng tượng cho sự phú túc. Trong giỏ còn 12 lá trầu tượng cho 12 tháng; năm nào nhuận có 13 lá. Khi hạ nêu vào ngày mùng 7 tháng Giêng; những lá trầu đước lần lượt lấy ra khỏi giỏ tre. Lá thứ nhất là tháng Giêng; lá thứ hai là tháng 2,…cho đến hết 12 lá. Người ta cho rằng: Lá nào héo là tháng đó trong năm không tốt. Trong giỏ tre còn được bỏ một đòn bánh Tét cũng tượng cho sự phú túc.
Trên hình chữ nhật; người ta cũng treo một đôi đũa trời tượng cho Âm Dương; một giỏ tre trong đó có một túi gạo muối được gói trong vài hoặc giấy điều; là hai vật thiết yếu cho đời sống con người và cũng tượng cho sự phú túc. Trong giỏ còn 12 lá trầu tượng cho 12 tháng; năm nào nhuận có 13 lá. Khi hạ nêu vào ngày mùng 7 tháng Giêng; những lá trầu đước lần lượt lấy ra khỏi giỏ tre. Lá thứ nhất là tháng Giêng; lá thứ hai là tháng 2,…cho đến hết 12 lá. Người ta cho rằng: Lá nào héo là tháng đó trong năm không tốt. Trong giỏ tre còn được bỏ một đòn bánh Tét cũng tượng cho sự phú túc.
Ngoài hai dạng cây nêu được
trình bầy ở trên; còn một hình tượng cây nêu nữa chỉ có một thân cây tre duy
nhất vút cao lên trời xanh. Trên thân cây tre có trang trí; giấy mầu và từng khúc
có gắn những tua trang trí.
Như vậy; với những hình tượng
cây nêu còn lưu lại có những khác biệt đã cho thấy dấu ấn của những thăng trầm
trong lịch sử Việt. Nhưng dù là có sự khác biệt về chi tiết thì bản thân sự phổ
biến của cây nêu trong văn hoá Việt; đã chứng tỏ sự lựa chọn có ý thức của tổ
tiên cho một biểu tượng văn hoá. Như vậy; cây nêu phải là một hình tượng minh
triết của cha ông truyền lại cho đời sau.
Người viết bài này cho rằng:
Có thể chỉ có một trong hai hình
tượng cây nêu có tán phía trên; hoặc cả hai; có sự xuất xứ nguyên thuỷ chứa
đựng ý nghĩa minh triết. Nếu không phải cả hai cùng xuất hiện đồng thời thì cây
nêu có vòng tròn phía trên có xuất xứ nguyên thuỷ hơn. Hình tượng cây nêu này;
gần như hoàn toàn trùng khớp với hình tượng một tôn giáo được hình thành trong
văn minh Lạc Việt đó chính là chiếc nón và cây gậy của ngài Chử Đồng Tử và công
chúa Tiên Dung tạo nên vương quốc tâm linh đầy huyễn ảo.
Với hình tượng thân cây tre vút
cao; vươn thẳng lên trời xanh; xuyên tâm vòng tròn phía trên cây tre là hình
tượng của sự thăng hoa tư tưởng; đạt tới sự viên mãn và trở về với bản thể
nguyên thuỷ của vũ trụ; tức là “Mẹ tròn”; là sự khởi nguyên của vũ trụ. Hình
tượng rất minh triết này gần gũi với quan niệm của Phật Giáo là sự giải thoát
và trở về với bản tính chân như. Với cây Nêu mà người viết cho rằng là nguyên thuỷ
này; thể hiện một sự nhận thức sâu sắc bản tính và sự giải thoát; có lẽ đã ra
đời trong thời cực thịnh của nền văn hiến Lạc Việt; một thời huy hoàng ở miền
nam sông Dương Tử.
Cây nêu với hình tượng “Tứ tung
Ngũ hoành”; có thể xuất hiện sau khi Đạo giáo của Ngài Chử Đồng Tử khi bị biến
thể; trở thành một môn tu luyện với bùa phép huyền bí; nhằm thoả mãn những nhu
cầu của đời sống con người nhằm trừ bệnh tật; đem lại sự phú túc bình yên. Đó
là lý do để người viết cho rằng: Cây nêu với hình tượng “Tứ tung Ngũ hoành” có
sau.
Còn hình tượng cây Nêu chỉ có
một thân tre thẳng đứng; vì tính tương tự phổ biến của loại hình này trong đời
sống thường ngày - một cột mốc ruộng; chiếc cột đèn…Bởi vậy; người viết cho
rằng; có thể đây chỉ là dấu ấn còn lại trong ký ức của người Việt về cây nêu;
nhằm giữ lại di sản văn hoá tâm linh của tổ tiên; nhiều hơn là một biểu tượng minh
triết nguyên thuỷ của nó.
Với hình tượng cây nêu đã trình
bày ở trên; đã cho thấy một hình tượng được lựa chọn có ý thức làm biểu tượng
cho sự minh triết Lạc Việt từ một cội nguồn văn hiến của nước Văn Lang dưới
thời các vua Hùng dựng nước. Sự vươn lên đạt tới chân tính; hoà nhập với thiên
nhiên trong sự an nhiên tự tại và tình yêu con người. Đây chính là thông điệp
của tổ tiên truyền lại từ hàng ngàn năm trước cho đời sau; hình tượng của một
giá trị minh triết Việt.
Dịch viết:
“Trí thì cao siêu; lễ thì khiêm hạ. Cao là bắt
chước trời; thấp là bắt chước đất”
Chỉ với cây tre đơn sơ và rất
phổ biến trong đời sống của người Việt; tổ tiên đã gửi lại đời sau sự nhắn nhủ
của cội nguồn lịch sử gần 5000 năm văn hiến. Trải bao thăng trầm bi tráng trong
lịch sử giống nòi; hình ảnh cây nêu vẫn còn trong tâm tưởng của người Việt như
một sự kết nối với cội nguồn một thời oanh liệt vàng son và đầy tính nhân bản.
Tục trồng nêu ngày Tết không chỉ
ở dân tộc Kinh mà còn rải rác một số dân tộc khác trên đất Việt hiện nay. Điều
này đã chứng tỏ tục trồng nêu đã có từ rất xa xưa trong truyền thống văn hoá
Việt qua tính phổ biến của nó trong các dân tộc anh em. Sự giải thích hợp lý
cho tục trồng nêu - một di sản văn hoá phi vật thể của người Việt - là: Tục này
có từ thời Hùng Vương dựng nước.
Hình ảnh cây nêu truyền thống;
trong lòng mỗi người con đất Việt; chính là di sản của tổ tiên để lại nhắc nhở
lòng tự hào của của dòng dõi Tiên Rồng của cha ông với danh xưng 5000 năm văn
hiến.
(Nguồn: http://baogiaoduc.edu.vn/chi-tiet/151-625-thuyet-minh-ve-truyen-thong-phong-tuc-co-truyen-ngay-tet.html)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.